Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Tình yêu đắm chìm trong suy niệm!

“Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy niệm trong lòng” 
(Lc 2,19).

NGÀY 1 THÁNG 1: MẸ THIÊN CHÚA

Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng mầu nhiệm nhập thể giống như việc Thiên Chúa cùng hợp tác với Đức Maria, khi đem một nhiễm sắc thể thần linh Y phối hợp với một nhiễm sắc thể nhân loại X, để tượng hình nên Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa, vừa là con người. Quan niệm sai lầm này xem Đức Giêsu chỉ là một sản phẩm được giao phối cách nhiệm mầu, giống như chuyện thần thoại về Hercules, chứ không phải là Đấng Cứu Thế như Kinh Thánh mô tả. Trong một khảo luận, tôi đã chỉnh sửa quan niệm sai lầm này và trình bày như sau: “Lãnh vực vô hạn siêu nhiên và chân trời vô hạn vượt xa lý luận của đầu óc con người, đã hiển thị nơi Đức Giêsu Nazareth, từ lúc hoài thai trong cung lòng mẹ Maria.”

Lễ trọng mừng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa đưa dẫn chúng ta đến những chân lý quan trọng về mầu nhiệm liên quan đến Đức tin, mà chúng ta chẳng cần nhọc công vắt óc để suy nghĩ làm gì. Chúng ta gọi Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” và chúng ta xác tín như thế, không phải vì Thiên Chúa đã nắn hình tượng Đức Giêsu trong cung lòng Đức Maria, và phủ bao một thực thể thần linh vào trong thai nhi đó. Chúng ta xác quyết, người con của Đức Maria mang bản tính Thiên Chúa tròn đầy ngay từ ban đầu. Cho dầu có hai bản tính, Đức Giêsu Kitô vẫn là một hữu thể đơn biệt, và Đức Maria vẫn là Mẹ của Ngài cách thực sự.

Nếu điều này thách đố những suy tưởng của chúng ta, chúng ta hãy nhìn lên để cung chiêm “Người Mẹ được chúc phúc” như Tin mừng Luca nói tới. Thánh ký dẫn mời chúng ta đến chuồng bò ở Belem. Các mục đồng chăn chiên ở gần đó đã đến ngắm nhìn đứa trẻ mới được sinh ra, là Đấng Messia và cũng là Đức Chúa mà Thiên Thần đã loan báo. Luca kể lại rằng, các mục đồng đã thuật lại những điều đã được khải thị về trẻ thơ này. Sau đó, các thiên sứ từ trời ca hát rộn ràng ngợi khen Thiên Chúa. Luca đã tóm tắt thái độ của “Người Mẹ Được Chúc Phúc” bằng một câu rất giản đơn : Đức Maria ghi nhớ những điều đó, và suy ngắm trong lòng.

Kinh Thánh kể tiếp biến cố cắt bì cho trẻ Giêsu, tám ngày sau khi sinh. Điều này khá quan trọng. Việc cắt bì của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến nội dung mà bài đọc thứ hai đề cập tới. Thánh Phaolô cho chúng ta biết, Đức Giêsu “được sinh ra dưới lề luật để chuộc những ai sống dưới lề luật”. Ngài huấn thị cho tín hữu Galát biết rằng, lề luật được trao ban đã được Thiên Chúa chúc lành, và đó là con đường giúp tôi luyện con người vươn tới sự thánh thiện. Nhưng lề luật cựu ước chỉ là cái khung bên ngoài để uốn đúc. Khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài mới hoàn thiện lề luật, mặc cho lề luật một chiều kích mới, hầu đưa dẫn con người đến sự sống trong Thần Khí. Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta biết rằng chỉ trong Thần Khí, Thần khí lưu ngụ sâu tận trong tâm hồn mỗi người, chúng ta mới có thể đi vào mối tương giao mới, rất sâu xa và thân tình với Thiên Chúa. Ngụp lặn trong mối tương giao thân tình đó, chúng ta gọi Chúa là “Abba, Bố ơi,”.

Cuối cùng, Thánh Luca kể lại câu chuyện đặt tên cho trẻ Giêsu, tên mà thần sứ Gabriel đã nói cho Đức Maria trong ngày truyền tin. Tên gọi Giêsu (Yeshua) có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Điều này hàm ngậm một ý nghĩa sâu xa. Trong Kinh Thánh, tên gọi biểu thị quyền bính của một con người hay một nhân vật. Tên gọi cũng diễn tỏ căn tính người đó như thế nào, và điều này rất rõ nét trong biến cố đặt tên con trẻ Giêsu. Thật là điên khùng và xuẩn ngốc, khi bạn đặt tên cho con của mình là “Chúa cứu” như Gabriel đã nói, khi con của bạn chỉ là một đứa bé bình thường giống như bao đứa trẻ khác. 

Đức Maria lưu giữ những điều đó và gẫm suy trong lòng. Mầu nhiệm nhập thể cũng như vai trò làm Mẹ Đấng Cứu thế, không phải là những vấn đề mà Đức Maria phải nhọc công suy nghĩ hay cố phân tích hầu tìm ra những lý lẽ để giải trình. Thánh Luca kể lại, Đức Maria đã đi vào thế giới của mầu nhiệm, chỉ với một thái độ duy nhất : Suy niệm trong lòng. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, thái độ đó gợi nhắc chúng ta điều gì.

Tôi xin được gợi lên hai suy tư. Điều thứ nhất, tôi nghĩ tưởng đến biến cố Giáng sinh với một cảnh tượng huy hoàng bao trùm cả vũ trụ. Các Thiên thần trên trời hát xướng, cùng hòa niềm vui với những khách hành hương nghèo xác nghèo xơ, là những đứa trẻ chăn trâu ngoài đồng, những con người thấp cổ bé họng đang bị xã hội bỏ rơi. Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng đến việc Thiên Chúa thường hay thực hiện những ơn sủng phi thường của Ngài xuyên qua những biến cố rất bình thường trong cuộc sống con người. Tôi cũng từng trải nghiệm niềm vui phục sinh mọi nơi mọi lúc. Ví dụ khi tôi nhìn vào cô Rose Marie, một phụ nữ đã thiết lập một ngôi nhà mở để tiếp đón những người bất hạnh, và cô gọi đó là “ Ngôi nhà Lắng nghe”. Cô thực sự yêu thương những người đang sống tại đó, trong đó có cả những người say sưa nghiện ngập, những người ngang ngược, có khi còn chửi bới, đay nghiến cả cô ta nữa. Làm thế nào cô ta lại có tấm lòng như thế. Cô gái muốn khơi dậy niềm hy vọng nơi những con người bất hạnh và tuyệt vọng, giúp họ suy nghĩ là họ vẫn có quyền được yêu thương giống như những con người khác. Đó thực sự là một quà tặng lớn lao, và đây cũng là một phép lạ của tình yêu đang xảy ra trong cuộc sống đời thường của chúng ta hôm nay.

Thứ đến, chúng ta cũng có thể suy niệm về vai trò làm Mẹ của Đức Maria đối với chính chúng ta. Qua người môn đệ được Chúa yêu, chúng ta đón nhận Đức Maria về nhà mình : “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Chúng ta sẽ tôn nhận Đức Maria là Hiền Mẫu, bao lâu chúng ta còn đón nhận Đức Giêsu như là Chúa và là người anh cả của chúng ta. Chúng ta đón nhận Mẹ, khi chúng ta nhận ra rằng tình yêu hiền mẫu của Ngài đang lan tỏa trong cuộc đời chúng ta để Vương quốc Đức Giêsu, người con yêu dấu của Mẹ, được ngập tràn nơi cuộc sống mọi người.

Sẽ còn nhiều điều chúng ta cần phải lưu giữ và suy đi nghĩ lại trong lòng.

Peter Feldmeier
Lm. GB. Trần Văn Hào




Mẹ...

Xin mượn những vần thơ của nhà thơ Đỗ Trung Quân để cùng chia sẻ với mọi người về ngày của Mẹ. Thật vậy, với những ai đã không còn Mẹ, những người con mồ côi thiếu vắng tình thương thì mới thấu hiểu thế nào là nỗi đau mất Mẹ vắng cha…

Ngày hôm nay tôi đi viếng một đám ma, ông cụ gần nhà tôi, có thể nói là hàng xóm láng giềng nhưng sự thật hơn 30 năm tôi sống trên trần gia này gặp gỡ ông cụ được mấy lần, mà nhà có xa gì đâu, cách nhà tôi chỉ vài căn, thế mà… Từ khi có trí khôn tôi biết ông cụ phải lên rừng phá cây làm rẫy, cái ngày từ những năm 90 ấy đói khổ, nghèo nàn, ông cụ cứ ở trên rẫy, quanh năm suốt tháng làm bạn với rừng, với nương rẫy chỉ mong sao kiếm cơm nuôi đàn con khờ dại…

Rồi ngày hôm nay khi các con đã khôn lớn, trưởng thành lập gia đình riêng thì cũng chính là lúc đầu ông bạc trắng, mỏi gối chồn chân, nhìn lại thành quả của mình suốt bao năm khó nhọc nay cũng hưởng chút tiền. Ông quyết định bán hết ruộng rẫy được số tiền khá lớn, ông chia đều cho các con như là của hồi môn và về sống những ngày cuối đời. Còn bà nghĩ rằng chẳng sống bao lâu nữa cũng bán ít ruộng còn lại chia hết tiền cho các con…

Thế nhưng khi ông bệnh chẳng đứa nào quan tâm, chúng chở ông ra bệnh viện và bỏ mặc, khi trái gió trở trời, ông thèm miếng bánh miếng cơm, chúng nào cho ăn, muốn ăn ư? Phải nộp 10.000đ thì chúng cho ăn bữa trưa, còn không có tiền thì đành nhọn đói…

Nhà chúng nó nhà lầu cao ngút, còn nhà ông bà xập xệ như mái ấm tình thương. Ông chán đời hụt hẫng đành mượn rượu giải sầu, mà sầu cứ càng sầu thêm, để rồi cuối cùng ông bật thốt uống cho mau chết để rảnh nợ đời…

Chiều qua khi nghe tiếng chuông nhà thờ đổ, lòng tôi chợt lắng đọng và nhói đau. Vội cầu cho ông câu kinh nhưng lòng tôi giá buốt, ông chẳng là gì của tôi và tôi cũng chẳng là gì của ông, chẳng qua chỉ là người hàng xóm, nhưng tôi xót thương cho kiếp người của ông. Tôi mong rằng mình còn cha còn mẹ để được báo hiếu phụng tự nhưng mãi mãi sẽ chẳng bao giờ tôi có, vậy tại sao những người con ơi tìm kiếm đâu ra cha mẹ đây khi nếu không có các ngài làm sao có chúng ta…?

Và cũng trong chiều nay tôi đi tham dự thánh lễ an táng một ông nọ. Hơn 60 năm làm người có lẽ ngày hôm nay khi xuôi tay nhắm mắt ông không ngờ chính bản thân ông lại được bà con lối xóm quan tâm, đưa tiễn cách long trọng nhất, vì nghĩa tử là nghĩa tận mà…

Ông sinh ra ở chốn làng quê này rồi lập nghiệp nơi thành đô phố thị. Ông cũng có một mái ấm gia đình, một người chồng bao dung luôn tha thứ mọi lỗi lầm của người vợ để bao bọc gia đình, ông là một người cha nhân hậu, thế nhưng dòng đời xô đẩy đẩy đưa khiến ông dần xa lìa chính niềm tin của mình và tự nhốt mình trong vỏ ốc khô khan đời mình…

Ngày trở về làng quê là ngày ông mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo, và cũng chính cái làng quê bé nhỏ này cưu mang, nâng đỡ ông để ngày cuối đời ông bình an trong tình yêu xóm làng, tình yêu cao vời của vị cha nhân lành…

Tôi cứ thầm nghĩ mỗi người một hoàn cảnh và mỗi người có một cái chết khác nhau, làng quê của tôi từ đầu năm đến giờ đã 8 người ra đi, 3 thanh niên, 1 trung niên và 4 bậc gia trưởng, nhưng chính trong 8 cái chết này đều khác nhau hoàn toàn, mỗi người một khía cạnh, 3 anh thanh niên ra đi rất bất ngờ, người bị tai nạn giao thông và chết ngay ngày sinh nhật của mình, người bị đâm, người bị chém, người sốc rượu, người bệnh họan… đủ các loại, thế nhưng chính mỗi cái chết ấy có người khiến tôi thương xót, nhưng cũng có kẻ chết rồi nằm đó mà người đời vẫn mỉa mai, khinh bỉ…

Nhìn lại cái chết của ông cụ hôm nay, tôi thầm nghĩ một đời người sống như ông cụ có ý nghĩa gì không nhỉ? Những vành khăn tang đội vội trên đầu, những tà áo xô kia có xóa tan hết những lỗi lầm mà các con của ông đã đối xử với ông hay không? Hay đằng sau những vành tang trắng kia lại là những toan tính vật chất vì chẳng ai chịu thiệt chịu thua về phần mình, dù rằng ….

Ngày hôm nay tôi cũng đang ngồi trong căn phòng nơi căn nhà của cha mẹ tôi để lại. Mái nhà này đáng lẽ rất có ý nghĩa, thế mà chỉ nay mai đây mái nhà này rồi cũng tan tành dưới những nhát búa vô tình nhưng tan nát trái tim tôi. Mọi người ai cũng thương tiếc cho mái nhà này nhưng chẳng ai thương tiếc cho những vết dao đã đâm, đã rạch nát trái tim vốn quá nhỏ bé và yếu đuối của tôi…

Tôi cũng đã từng mong, từng hy vọng giữ mái nhà này bền vững theo thời gian, để con cháu mai sau nhớ về cội về nguồn, nhưng ngay hiện tại chính chúng còn không muốn nhớ, còn không cần biết cội biết nguồn thì tôi biết làm sao hơn…

Lại một năm mới nữa Mẹ ơi! Lại một ngày mới của riêng Mẹ thế mà con chẳng làm được trò trống gì nên hồn. Con nay đã đi hơn nửa cuộc đời thế nhưng con vẫn cần lắm vòng tay yêu thương của Mẹ, cần lắm ánh mắt nhìn âu yếm, cần lắm tiếng thờ dài nặng nhọc của Mẹ, Mẹ ơi!

Ngày hôm nay, trong mái nhà này, con chỉ muốn dù một lần Mẹ về bên con, dù chỉ là trong giấc mơ để con được nép mình trong vòng tay Mẹ trước khi mái nhà này tan nát…




Con sẽ không đợi một ngày kia 

khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc 

Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ? 

Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt 

Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua 

mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ 

ai níu nổi thời gian? 

ai níu nổi? 

Con mỗi ngày một lớn lên 

Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi 

Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn. 




Con sẽ không đợi một ngày kia 

có người cài cho con lên áo một bông hồng 

mới thảng thốt nhận ra mình mất mẹ 

mỗi ngày đi qua đang cài cho con một bông hồng 

hoa đẹp đấy - cớ sao lòng hoảng sợ? 

Ta ra đi mười năm xa vòng tay của mẹ 

Sống tự do như một cánh chim bằng 

Ta làm thơ cho đời và biết bao người con gái 

Có bao giờ thơ cho mẹ ta không? 

Những bài thơ chất ngập tâm hồn 

đau khổ - chia lìa - buồn vui - hạnh phúc 

Có những bàn chân đã giẫm xuống trái tim ta độc ác 

mà vẫn cứ đêm về thao thức làm thơ 

ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ 

giọt nước mắt già nua không ứa nổi 

ta mê mải trên bàn chân rong ruổi 

mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng 

Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân 

mấy kẻ đi qua 

mấy người dừng lại? 

Sao mẹ già ở cách xa đến vậy 

trái tim âu lo đã giục giã đi tìm 

ta vẫn vô tình 

ta vẫn thản nhiên? 




Hôm nay... 

anh đã bao lần dừng lại trên phố quen 

ngã nón đứng chào xe tang qua phố 

ai mất mẹ? 

sao lòng anh hoảng sợ 

tiếng khóc kia bao lâu nữa 

của mình? 

Bài thơ này xin thắp một bình minh 

trên đời mẹ bao năm rồi tăm tối 

bài thơ như một nụ hồng 

Con cài sẵn cho tháng ngày 

sẽ tới !

Trong cuộc đời mỗi con người ai cũng có cha có mẹ. Niềm hạnh phúc cao quý nhất chính là được sinh ra, được làm người và sống trọn vẹn nghĩa tình thảo hiếu. Nhưng trong dòng đời, nước trong suối chảy ra sông, rồi nước từ sông đổ ra biển, nước mắt chỉ chảy xuôi mà nào có khi nào chảy ngược??? Bài cảm nhận này tôi viết đã 10 năm rồi. Và hôm nay trong tâm tình ngày đầu năm mới, ngày mà toàn thể Giáo Hội Công Giáo Mừng Lễ Kính Trọng thể Thánh Maria Mẹ Thiên Chúa. Công đồng Vaticano II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau:

· "Không có gì lạ, nếu các giáo phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một tạo vật mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nazareth được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là "Đầy ơn phườc" (Lc. 1,28). (GH.59).

· "Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Nữ Trinh Vô nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài cách trọn vẹn hơn" (GH.59).

· "Đức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm Mẹ... Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu chuộc không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời... Vì thế trong Giáo hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian" (GH.62) 


Ngày 1/1: Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa
Lời Chúa:  Lc 2,16-21
16 Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. 17 Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. 18 Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.

19 Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. 20 Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.

21 Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.

                           (Nguồn: Ủy ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc. Trong buổi Truyền Tin, chính sứ thần Gabriel đã quả quyết: "Người sẽ thụ thai và sinh con... trẻ sẽ sắp sinh sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa" (Lc 1,31-35). Được Thánh Thần linh hứng, bà Elisabeth cũng đã lên tiếng: "Bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi" (Lc1,43). Niềm tin vào chức phẩm cao quí là Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã có từ đầu Giáo hội. Chính thánh Phaolô đã viết: "Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa sai con của Người, sinh bởi người Nữ" (Gl 4,4).

Tiếp tục niềm tin đã có từ đầu, các tín hữu còn xác tín hơn nữa do biến cố dẫn tới những xác quyết chắc chắn của Công đồng chung Ephêsô (năm 413). Nestoriô khi ấy bác bỏ tước hiệu Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, ông chỉ chấp thuận Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, vì Ngài chỉ sinh ra xác thể Chúa Kitô thôi, chống lại lời rao giảng của Giám mục Nestoriô, khoảng hai trăm Giám mục đã họp tại Ephêsô ngày 22.6.431, dưới quyền chủ tọa của Thánh Cyrillô thành Alexandrioa. Công đồng này kết án Nestoriô và tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Toàn thể dân thành đã công khai bày tỏ niềm hân hoan trước thành quả này. Họ tổ chức rước đuốc để mừng các nghị phụ công đồng. Cũng từ công đồng này mà có phần sau của kinh Kính mừng: "Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử".

Hợp với niềm hân hoan của dân Chúa dịp công đồng Êphêsô bế mạc, niềm tôn kính dâng lên Mẹ Thiên Chúa ngày một thêm sâu đậm. Vua Giuse Emmanuel nước Bồ Đáo Nha đã xin ông được đặc ân mừng lễ Mẹ Thiên Chúa. Thánh bộ nghi lễ đã ban bố sắc lệnh thiết lập ngày 22 tháng giêng năm 1751 và ấn định vào Chúa nhật đầu tháng năm. Từ đó nhiều nước cũng được hưởng đặc ân này.

Năm 1931, dịp kỷ niệm 1500 năm, công đồng Ephêsô, Đ.G.H Piô XI đã lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo hội vào ngày 11 tháng 10. Chính Đức giáo hoàng Piô XI đã viết: - "Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mối nước mầu nhiệm vô tận, đã tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa (Lux Veritatis 1931).

Năm 1962, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã chọn lễ kính Mẹ Thiên Chúa làm ngày khai mạc công đồng Vaticanô II.

Đức giáo hoàng Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch, việc dời ngày kính này vào ngày thế giới Hòa Bình, nhấn mạnh thêm ý nghĩa lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa hôm nay.

Đức giáo hoàng Phaolô VI viết: - "Khi canh tân mùa Giáng sinh, mọi người phải chú ý đến việc tái lập lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng, đúng phụng vụ Roma từ xưa, nhằm tôn kính việc Đức Maria góp phần vào mầu nhiệm cứu rỗi và tôn vinh địa vị đặc biệt, khiến cho "Mẹ rất thánh, đáng tiếp nhận Nguồn sống cho chúng tôi". Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình. Vì sự trùng hợp tốt đẹp giữa ngày 1 tháng giêng với ngày thứ tám giáp Lễ Giáng sinh mà chúng tôi đã đặt ngày đó là ngày thế giới hòa bình, mà thế giới mỗi ngày càng hưởng ứng thêm, và thành quả của hòa bình đã phát sinh trong lòng nhiều Người" (ĐGH Phaolô VI. Marialis Cultus, số 5b).

Lạy Mẹ Maria, hôm nay khởi đầu năm mới, chúng con xin phó dâng gia đình, giáo xứ và tất cả mỗi người kito hữu chúng con cho Mẹ, để nhờ lời cầu bầu của Mẹ, xin Chúa giàu lòng thương xót nâng đỡ và chữa lành những vết thương vì vật chất và tinh thần đã xảy ra trong cuộc sống của từng người. Xin nhờ Mẹ chuyển cầu để tình thương Chúa gìn giữ và xin nhờ ơn phước của Mẹ ngõ hầu chúng con được nhận lãnh muôn ơn lành của Chúa. Amen.

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015

ý nghĩa của những ngọn nến!

Từ hơn 5000 năm trước, nến đã trở thành một vật dụng thiết yếu đem lại ánh sáng cho loài người. Đến nay, mặc dù khoa học công nghệ phát triển nhưng sự tồn tại và tầm quan trọng của nến không hề mất đi. Nến như một biểu tượng linh hồn của ánh sáng trong đời sống tinh thần và vật chất của con người. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi điều thú vị về nến nhé.

Theo những ghi chép của lịch sử, nến có từ thời La Mã cổ đại. Họ dùng mỡ động vật của những loài có sừng và mỡ cừu đổ vào các ống giấy cuộn tròn. Sau đó có nhiều nguyên liệu khác nhau được thay thế để làm nến. Những người phụ nữ ở Châu Mĩ đã sử dụng quả mọng của bụi cây thanh mai để đốt cháy tạo nên ánh sáng và mùi hương. Tuy nhiên, việc làm này rất mất thời gian vì quá trình chiết xuất khá phức tạp. Người Trung Quốc thì sử dụng các ống bằng bánh bột gạo. Trong những năm cuối thế kỉ thứ 18, con người sử dụng cả dầu cá voi để đốt nến. Loại dầu này không mùi có khả năng cháy rất lâu. Tuy vậy, không dễ gì có thể kiếm được dầu của cá voi. Và cho đến thời hiện đại, các loại nhiên liệu đã được cải tiến như parafin, một tổ hợp của cacbon bão hòa, có khả năng cháy chậm và đặc biệt không gây mùi như khi sử dụng mỡ động vật.

Tìm hiểu ý nghĩa của những ngọn nến

Nến không chỉ được dùng để đốt cháy mang lại ánh sáng thông thường cho con người. Nến còn được dùng trong lễ hội tín ngưỡng tôn giáo. Nó thể hiện sự kính trọng và thiêng liêng. Không dừng lại ở đó, trong đời sống tinh thần của con người, ánh sáng lung linh huyền ảo của nến còn là biểu tượng của sự lãng mạn, cảm xúc đầm ấm. Vì vậy, nến được sử dụng khi con người ước nguyện, đám cưới, lễ tình nhân và sinh nhật.

Một điều vô cùng đặc biệt có lẽ bạn chưa biết, đó là mỗi màu sắc của nến mang ý nghĩa đặc trưng riêng. Không phải ai cũng biết sử dụng đúng loại nến để biểu đạt được ý nghĩa sau từng màu sắc. Dưới đây là ý nghĩa của một số màu nến thông dụng:

- Màu xanh lá cây thể hiện sự thành công về tài chính, may mắn khi tìm được công việc mới, sự chữa lành vết thương hay hạnh phúc trong hôn nhân.

- Màu đỏ thể hiện năng lượng sống, niềm đam mê, cảm xúc mãnh liệt trong tình yêu, và sự ấm áp. Vì vậy, người ta thường sử dụng nến đỏ trong đêm tân hôn của các cặp vợ chồng mới cưới.

Tìm hiểu ý nghĩa của những ngọn nến

- Màu vàng thể hiện sự sáng tạo, trí tuệ, sự tập trung, sức mạnh tinh thần và danh dự. Con người thường dùng nến màu vàng trong những nghi lễ để mang lại tính tập trung cao, tăng sự thuyết phục.

- Màu trắng thể hiện sự tinh khiết, trong trắng, một cảm giác thanh tịnh và bình yên.

- Màu hồng thể hiện sự dịu dàng, lãng mạn và tình cảm thuần khiết.

- Màu da cam thể hiện những điều tích cực, tinh thần phấn chấn và hứng khởi cho một khởi đầu mới, sự thành công và thịnh vượng của cuộc sống.

- Màu tím thường được sử dụng cùng với nến màu trắng để thể hiện sự dung hòa giữa trí tuệ và bản năng, tăng sự ngoại cảm, khôn ngoan trong công việc.

Tìm hiểu ý nghĩa của những ngọn nến

- Màu xanh da trời thể hiện sự bình yên của cuộc sống, sự bình tĩnh khi mất thăng bằng.

Trong cuộc sống hiện đại, con người còn biết kết hợp nến với mùi hương từ nguyên liệu thiên nhiên để điều trị sức khỏe trong cuộc sống bộn bề công việc. Đây được coi như là một phương pháp trị liệu bằng hương thơm kích thích khứu giác, xoa dịu các dây thần kinh khi bị căng thẳng. Bạn chỉ cần đốt một cây nến, thả mình trong những điệu nhạc nhẹ nhàng, thư giãn nghỉ ngơi, mùi hương của nến lan tỏa khiến cơ thể trở nên thoải mái, xua tan đi sự mệt mỏi. Những mùi hương được ưa chuộng như socola, bạc hà hay các mùi hoa quả như chanh, cherry, táo và mùi của hoa như hoa oải hương, hoa nhài, hoa hồng sẽ giúp cho cơ thể có được sự thư giãn thoải mái nhất.

Tìm hiểu ý nghĩa của những ngọn nến

( http://khoahoc.tv/tim-hieu-y-nghia-cua-nhung-ngon-nen-41955)

Dù mập, ốm, gầy, cao... dù nến sáp hay ly thủy tình, dù ở bất kì một hình thù nào thì nến vẫn có một nhiệm vụ duy nhất nhưng vô cùng cao cả là thắp sáng và chiếu tỏa ánh sáng đến môi trường xung quanh. Ánh sáng ngọn nến tuy mỏng mảnh yếu đuối nhưng lại rất kiên trì bền bỉ và sẵn sàng đốt cháy hết những giọt sáp cuối cùng để mong muốn mang chút ánh sáng cho môi trường mà ngọn nến cần và được phục vụ... “Thật vui khi tôi được mãi lung linh, được đem ánh sáng chân thật của mình đến cho mọi người. Nhìn thấy mọi gia đình hạnh phúc, vui vẻ, sum vầy bên sự sống của tôi, tôi thấy vui lắm rồi…! Khi tôi mang cả thân xác mình vì niềm vui của họ, tôi thật vô tư cứ cháy mãi không ngừng”.

Lời Chúa trong ngày cuối cùng của năm 2015 này cũng nói đến một nguồn sáng mới, "Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối." (Ga 1,4-5). Ánh sáng luôn chiếu soi trong đêm tối và đêm tối không thể tiêu diệt được sự sáng. 

Ngày 31/12, Tuần bát nhật lễ Giáng Sinh
Lời Chúa:  Ga 1,1-18
1 Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời: Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. 3 Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. 4 Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; 5 sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. 7 Ông đã đến như một người chứng, để ông minh chứng về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. 8 Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. 9 Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. 10 Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. 12 Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. 13 Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. 14 Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi. Và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. 15 Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Đây là Đấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi.” 16 Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. 17 Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô. 18 Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.

                           (Nguồn: Ủy ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

“Chúng tôi thân phận là cây nến, phải ra đi thắp sáng ở mọi nơi, mọi lúc, mọi thời điểm,… Có lúc thì được thắp sáng nơi ngôi nhà ấm cúng, có những lúc thì ngoài nơi rét run; Cũng có những lúc thì phải thắp cho gia đình này hay gia đình kia,…nhưng điều quan trọng là chúng tôi phải biết đem ánh sáng đến cho mọi người xung quanh…”

“Số phận của chúng tôi là thế…phải biết chấp nhận hi sinh, tiêu hao từng ngày, từng giờ cho con người thì tôi mới là người có ích…Dù tôi chỉ là một cây nến nhỏ thôi nhưng cũng mỉm cười vì được thắp sáng lên cùng những cây nến khác…Dù béo dù gầy hay dù cao dù thấp…tôi cũng sẵn sàng phục vụ con người. Dù cho tôi chỉ còn những centimet cuối cùng, nhưng tôi cũng tự hào vì mình đã làm được một việc tốt, có ích cho mọi người, là thắp sáng cho trần gian….”
( http://caunguyenbangtraitim.com/tam-su-cua-ngon-nen/)

Chúa là ánh sáng trần gian. Chúa đã đến và hóa thành nhục thể vì con người. Chúa đã mang lại cho con người niềm hy vọng sau những đêm dài tăm tối của tội lỗi. Chúa là ánh sáng soi đường chỉ lối cho nhân loại phân biệt thiện, ác và để con người biết tìm đường về chân lý.
Chúa ơi! một năm đã trôi qua, một năm với 365 ngày với biết bao thăng trầm trong đời sống từng người, vui, buồn, giận hờn, thất bại, cay đắng xen lẫn những thành công nhưng ít khi mấy ai nhớ đến Chúa, nhờ ơn Chúa và cùng với Chúa đồng hành trong cuộc sống. Xin cho con người biết nhận ra Chúa, cùng đồng hành, chia sẻ và xin ơn trợ giúp từ Chúa, để ách của Chúa thì luôn êm ái và bình an.

Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Nỗi niềm chờ mong!

(PL+) - 5 trong số 19 chủ hộ tại Khu tập thể Sông Biển (địa chỉ tại khối 11, phường Cửa Nam, TP Vinh, Nghệ An) đã mất vì tuổi tác, còn lại những cụ ông, cụ bà đã gần 70, 80 tuổi vẫn đang mòn mỏi chờ mong được cấp sổ đỏ cho những ngôi nhà được Nhà nước hỗ trợ xây dựng hiện đã xuống cấp nghiêm trọng sau mấy chục năm sử dụng…

Đợi đến cuối đời…

Có mặt tại Khu tập thể (KTT) Sông Biển, nơi sinh sống của 19 hộ dân nguyên là cán bộ của Tổng Cty Vinashin (nay là Cty CP GTVT và dạy nghề Nghệ An), chúng tôi tận mắt chứng kiến chủ nhân của những ngôi nhà trên đầu đã hai thứ tóc vẫn “chưa chính chủ”. Họ đã gần cuối đời, nhưng mảnh đất vẫn chưa được cấp sổ đỏ mang tên mình.

Các hộ dân ở KTT Sông Biển từng là thanh niên xung phong, hỏa tuyến, bộ đội, dân quân…; khi đất nước độc lập, họ về đây sản xuất và sinh sống.

Năm 1991, Tổng Cty Vinashin có chính sách giao nhà đất tại KTT để họ sinh sống ổn định, lập gia đình. Năm 2004, Cty tiến hành xây dựng trung tâm đào tạo lái xe, những công nhân sống trong KTT được quy hoạch di dời nhường đất để mở rộng trung tâm. Họ được di dời và hỗ trợ làm nhà bên cạnh khuôn viên trung tâm và sinh sống từ đó đến nay.

“Lúc lấy đất xây dựng trung tâm, Cty phân cho cán bộ mỗi nhà một mảnh đất, xây cho căn phòng rộng chừng dưới 20m2, hết 15 triệu, Cty hỗ trợ 11 triệu, còn lại mỗi gia đình phải vay mượn để thêm tiền xây dựng. Quá trình sinh sống, chúng tôi vay mượn, tích cóp xây nới như hiện nay…”, bà Nguyễn Thị Nhường (SN 1944, Tổ trưởng tổ 9, khối 11) cho biết.

Bà Nhường được cấp cho căn nhà KTT để sinh sống ổn định từ năm 1991 đến nay nhưng vẫn chưa được cấp sổ đỏ. Bà Thái Thị Dung (SN 1948), bà Nguyễn Thị Tâm (SN 1944) hay bà Trần Thị Đức (SN 1948)… đều là những công nhân nghỉ hưu được cấp đất ở, cũng chưa có sổ đỏ mang tên mình.

Sổ đỏ chưa có, chính sách bao giờ được hưởng ?

Bà Nhường cho biết, bà và các hộ dân sống ở đây đều là những đối tượng người có công được Nhà nước hỗ trợ tiền sửa nhà, nhưng cũng vì nhà chưa được cấp sổ đỏ nên không được hưởng khoản trợ cấp đó. “Tôi chỉ lo đến cuối đời người mà vẫn chưa có mảnh đất mang tên mình, khi chết đi, con cái có được mảnh đất của bố mẹ để lại không?

Hiện 5 người trong KTT đã mất vì tuổi cao, tui không biết có chờ được tấm sổ đỏ không nữa…”, bà Dung cho biết. “Số phận” nhà xuống cấp tương tự là hộ bà Lê Thị Thu, bà Võ Thị Khương và bà Lê Thị Thiện.

 Mang những tâm tư của bà con trao đổi với ông Lý Ngọc Hùng - Giám đốc Cty, ông Hùng cho biết: “Đáng lẽ đến thời điểm này việc cấp sổ đỏ cho bà con đã tiến hành xong rồi, tuy nhiên còn một số vướng mắc dẫn đến việc chậm trễ. 

Tổng Cty Vinashin được cấp đất hoạt động từ năm 1964. Sau thời gian hoạt động, Cty đã chuyển sang sản xuất gạch và chuyển văn phòng về đường Nguyễn Văn Trỗi. Năm 2005 Tổng Cty tiến hành xây dựng Trung tâm dạy nghề và năm 2007 đi vào hoạt động nên những công nhân phải nhường đất KTT để xây dựng và được di dời đến nơi ở mới”.

Ông Hùng cho biết thêm, vừa qua Tổng Cty GTVT và thương mại Nghệ An có quyết định chuyển nhượng lại cho Cty thành viên là Cty CP GTVT và dạy nghề Nghệ An. “Đáng lẽ đến giờ phút này việc cấp sổ đỏ đã hoàn thành, tuy nhiên nếu làm trước thì sau này phải chuyển đổi thêm một lần nữa sẽ rất mất thời gian và lắm thủ tục.

Vì thế, đợi sau khi Cty hoàn thành thủ tục chuyển nhượng lại đất sẽ tiến hành làm thủ tục cấp bìa đỏ cho bà con luôn. Hiện tại,  HĐND, UBND, Sở TN&MT, thành phố và phường hết sức quan tâm nên công ty đang cố gắng trong thời gian ngắn nhất có thể hoàn thành thủ tục cấp sổ đỏ cho bà con”, ông Hùng chia sẻ.

Đã có 5 người nguyên là cán bộ của Tổng Cty, là những thanh niên xung phong, là bộ đội phục viên, là những người có công đã mất vì tuổi cao, bệnh tật.

Những người như bà Nhường, bà Tiến hay bà Dung liệu có cầm được tấm sổ đỏ trên tay trong những năm tháng cuối đời để được hỗ trợ sửa sang lại căn nhà chật chội, xuống cấp?... Việc này tùy thuộc vào trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc giải quyết thủ tục cấp sổ đỏ cho họ. 

( http://www.phapluatplus.vn/nghe-an-noi-niem-nhung-nguoi-bac-dau-ngong-bia-do-d2964.html)

Nỗi mong chờ của những hộ dân tại khu tập thể Sông Biển ( Nghệ An) được hợp thức hóa quyền sử dụng đất cho chính mình và có những người đã chờ đợi trong vô vọng và đã chết. Hôm nay, chúng ta cũng đã, đang và trong tâm trạng mong chờ một nguồn sáng mới cho muôn dân, nhưng có mấy ai nhận ra được "ánh sáng soi đường cho dân ngoại" ấy đã chiếu tỏa trên thế gian này hơn 2000 năm qua???

Lời Chúa:  Lc 2,22-35
Khi mãn thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con". Và lúc đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".

                                         (Nguồn: Ủy ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

Ông Si-mê-on tuổi đã cao, mắt đã mờ, nhưng kỳ diệu thay, lại nhìn thấy đôi vợ chồng nghèo hèn chỉ có một cặp bồ câu để làm của lễ kia đang “sở hữu” một kho tàng vô giá là Đấng Cứu Thế; nhìn thấy Hài Nhi bé bỏng kia chính là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Sở dĩ thế, vì “ông là người công chính và sùng đạo..., Thánh Thần hằng ngự trên ông... Thánh Thần thúc đẩy ông lên đền thờ”, nói cách khác vì ông tiếp cận với thế giới thần linh, mắt ông được huấn luyện trong bầu khí đạo đức, thánh thiện, trong sạch, nên cũng nhạy cảm để nhìn xuyên qua dáng vẻ bên ngoài. Quả là “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Một người sống gần với Chúa thì sẽ dễ cảm ứng sự thánh thiện; ngược lại, một người chỉ biết sống với thế gian, sẽ dễ xử sự theo cách thế gian.

Lạy Chúa, Chúa không ngừng hành động theo cách của Chúa chứ không theo cái nhìn và cách xét đoán của con người trong thế giới ngày hôm nay. Xin cho con biết nhận ra Chúa đằng sau các biến cố lớn nhỏ của đời con. Amen.

Có một vị Linh mục "Bồ tát"...

Chỉ 200.000 đồng có thể chẳng đáng là bao so với một buổi cà phê sáng, bữa ăn lót dạ của không ít những người giàu sang sung túc, nhưng đó lại là cái giá để “xây” được một ngôi mộ chôn các bào thai hay thai nhi bị giết chết bởi chính sự vô tâm của con người, mà ngay tại nghĩa trang Pleiku – một nghĩa trang miền Tây Nguyên này con số những ngôi mộ bé nhỏ khiêm nhường ấy đã lên tới trên vài chục ngàn ngôi mộ…


Nghĩa trang đồng nhi Pleiku:
Giờ đây, không chỉ ở nghĩa trang Pleiku với con số mộ đồng nhi lên con số trên  chục ngàn, mà rải rác khắp trên đất nước Việt từ Nha Trang, Quy Nhơn, Phú Yên, Đà Nẵng, Vinh, Thanh Hoá, Bắc Ninh, Ninh Bình … danh sách những nghĩa trang dành chôn các bào thai bị phá ngày càng nhiều và trên từng mảnh đất ấy đều ít nhiều in đậm dấu chân của Linh Mục Phêrô Nguyễn Vân Đông – Cha xứ nhà thờ Thăng Thiên – Pleiku đồng thời kiêm trưởng ban bác ái xã hội của giáo phận Kontum…
Nhớ lại ngày đầu khi thực hiện công việc này vào năm 1992, khi xung quanh thành phố Pleiku tình trạng phá thai rất nhiều và số những thai nhi bị phá vứt lăn lóc ngoài đường, bỏ vào thùng rác, thùng nước… Cha thấy quá nhẫn tâm nên mới xin mang về chôn. Ban đầu nghĩa trang Pleiku chỉ ưu tiên chôn tạm những người không may qua đời tại bệnh viện tỉnh mà thân nhân ở xa chưa kịp đến xin xác, nhưng rồi chính Cha lại mang những bào thai về chôn trên đất của nghĩa trang này và phải chôn lén lút. Ban đầu chỉ là một vài bào thai, rồi hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn cứ thế theo cấp số nhân tiếp bước. Số thai nhi bị phá càng nhiều càng tỉ lệ thuận với những khó khăn mà Cha cùng các đồng sự của Cha gặp phải, vì theo Cha đây chỉ là một việc nghĩa, các bào thai dù sao cũng là con người, có sự sống nhưng bị tước đoạt quyền sống thì Cha chỉ mong cho các bé một nấm mồ nho nhỏ vì con người khi chết cũng còn 1 nấm mồ, còn những đứa trẻ này chúng có tội tình gì đâu…


Thế rồi những ngày khó khăn ban đầu cũng qua đi, giờ đây gần 20 năm so với ngày đầu Cha đi lượm từng xác bào thai ấy ngày hôm nay Cha hầu như không còn phải làm công việc ấy nữa. Trong nghĩa trang này không phân biệt lương giáo cũng đã  có 1 bàn thờ dành cho các đồng nhi – theo các gọi của Cha và được nhiều người quan tâm chăm sóc. Những ngôi mộ thuở ban đầu Cha xây dựng cho các bé chỉ vỏn vẹn ở mức giá 50.000đồng với 1 hũ tiểu và chu vi khoảng 40x60cm cùng 20cm chiều cao so với mặt đất, nhưng đến nay qua nhiều lần tu sửa do các mạnh thường quân giúp đỡ, những ngôi mộ của các đồng nhi hôm nay cũng đã khang trang hơn, được ốp gạch đá sạch sẽ , thoáng đãng và có cái giá 200.000đồng/1 ngôi mộ…
Thời gian thấm thời gian, công việc của Cha ngày nào trong âm thầm nay được bà con khắp nơi ủng hộ, người có lòng, người bỏ của, có những người Cha chưa một lần gặp gỡ hay quen biết nhưng cũng tìm đến,  gọi điện và cùng với Cha lo cho các đồng nhi. Trong nước, ngoài nước, việt kiều, phật giáo, lương giáo, công giáo… mọi người cùng đồng lòng chung sức để rồi ngày hôm nay không chỉ một mà hàng chục những nghĩa trang đồng nhi khác xuất hiện. Đó có thể chỉ là một công việc bình thường đối với trách nhiệm bổn phận của một vị linh mục nhưng đối với xã hội phải chăng đấy không phải là việc làm của mỗi người chúng ta, mà đôi khi chính lương tâm của chúng ta phải cắn rứt vì sự vô tình và nền đạo đức đang dần bị tha hoá…
Cha dí dỏm cho biết: “Khi mọi người gọi tôi là “bồ tát”, tôi thấy vừa ngượng vừa vui. Vui vì người ta khen tôi, nhưng ngượng và xấu hổ vì tôi không xứng đáng với danh hiệu ấy. Bồ Tát theo nghĩa hiểu của Phật Giáo là một Đức Phật từ bi hỉ xả, còn tôi vẫn còn đầy những khiếm khuyết của một con người…”


Tái sinh sự sống và bảo vệ sự sống:
Không  chỉ dừng lại ở việc giúp các đồng nhi có 1 nấm mồ Cha còn trăn trở làm thế nào khuyên bảo, hướng dẫn giúp cho các thai phụ không phá thai mà sinh con. Chôn cất một bào thai quá dễ nhưng để giáo dục giúp thai phụ không phá bỏ con mình quả thực quá khó khăn nhưng Cha vẫn một lòng thực hiện. Cha cùng các tình nguyện viên toả khắp các nẻo đường, nhất là những nơi tụ tập nhiều thanh thiếu niên để tìm hiểu, động viên…  Bên cạnh đó, Cha xây dựng và mở các trung tâm, các nhà mở cùng với sự trợ giúp của các Dì phước ban đầu giúp được 20 phụ nữ lỡ lầm sinh con và nuôi dạy con an toàn. 
Sau khi sinh con, những phụ nữ này nếu không muốn nuôi con thì Cha sẽ nuôi các em và giúp bà mẹ trở về với cuộc sống bình thường. Cha còn tổ chức các lớp học, các khóa bỗi dưỡng y tế, giáo dục giúp các em thanh thiếu niên người dân tộc học hỏi và chuẩn bị tâm lý trước khi kết hôn. Vì là miền đất của đa phần người dân tộc sinh sống nên nhu cầu giáo dục, y tế rất cần thiết, vì thế chính những khóa học do Cha tổ chức hoàn toàn miễn phí giúp thanh thiếu niên người dân tộc không chỉ mở mang kiến thức mà còn tạo được công ăn việc làm ổn định khi trở về dân bản của mình. Hầu hết các thiếu nữ khi tốt nghiệp các khoá đào tạo từ trung tâm của Cha khi trở về bản làng đều “đắt” giá…


Không dừng lại như thế, những nhà dưỡng lão, nhà khuyết tật trên 80 em, nhà mồ côi trên 500 em kể cả người kinh lẫn dân tộc,  nhà nội trú trên 1800em đến từ các làng xã xa thành phố về Pleiku trọ học… Cha thực hiện những công việc này  đều với mục đích là giúp đồng bào dân tộc thoát khỏi lạc hậu, thoát nghèo và để sống xứng đáng là cuộc sống của một con người…
Em Rmah Unh, người dân tộc đang học lớp 12 bày tỏ: “ Nhà em ở cách đây gần 60 cây số, mẹ kể khi 3 tuổi em bị bệnh nặng tưởng chết nhưng được Cha cưu mang và nuôi đến hôm nay. Năm nay em học lớp 12 rồi, nếu không ở với Cha thì em đã chết hoặc chỉ quay quẩn ở làng với bố mẹ như bao thanh niên khác và chẳng biết cái chữ là gì, văn minh là gì…”
Chị Băng Thanh – Việt Kiều Mỹ. (nickname là ttbt08@yahoo.com) Chị là một phật tử và chưa từng biết đến Cha, nhưng khi chị về Việt Nam và thực hiện công tác từ thiện ở trại phong Huế thì mới nghe tên Cha. Và, chị đến pleiku cùng với 1 chị bạn để được gặp Cha và cùng Cha đến các làng cùi chia sẻ những phần quà nhỏ bé với những bệnh nhân người dân tộc mắc bệnh phong … không chỉ trong năm nay mà đầu năm tới ngày chị trở lại Việt Nam cũng chính là ngày chị sẽ làm phiền Cha rất nhiều vì những nơi Cha có quá nhiều những con người đau khổ cần được giúp đỡ…
Hay như Anh Dương Ánh Đăng – (nickname dgtruong@yahoo.com) chủ bút tập thơ “Mây nước lặng trôi” hiện đang ở Cali – Hoa kỳ cũng chỉ biết đến tên Cha qua internet nhưng đã tổng quyên góp số tiền hảo tâm của các độc giả ủng hộ tập thơ của anh gửi về cho Cha cốt dùng vào việc cứu giúp người nghèo khổ và chôn cất những hài nhi vô sinh…
Một việc làm ngàn ý nghĩa:
Một ngày những công việc không tên của Cha không thể kể hết, là 1 vị linh mục quản xứ trên dưới chục ngàn dân, lại kiêm chức “quản hạt” – một chức vị so với đời thường tương đương với chức vụ chủ tịch phường, rồi lại phải “gôm” cả chức trưởng Ban bác ái giáo phận trong một ông già ở tầm tuổi trên 60 quả là phi thường. Công việc giáo xứ, giáo hạt, giáo phận xen lẫn những công việc đời thường không tên như nghĩa trang đồng nhi, các trung tâm, mái ấm, các nhà khuyết tật, mồ côi… chuyện cười, chuyện khóc… chuyện gì cũng qua phải qua tay Cha  hay ít nhiều liên quan đến Cha…


Chỉ trong 2 tỉnh Gia Lai và Kontum của Miền Tây Nguyên này mà con số những bệnh nhân người dân tộc mắc bệnh phong lên con số 1722 người ( số liệu thống kê tháng 6 năm 2008) với 69 làng phong cùi biệt lập ở trong rừng xa dân cư và cộng đồng người Việt. Những bệnh nhân này đa phần đều nằm trong diện “chăm sóc” của nhà nước, tức được chữa lành, được cấp phát thuốc miễn phí nhưng phải uống thuốc đúng giờ, phải no bụng … Chính những điều này gây khó khăn cho họ vì họ ít hiểu biết, không biết tiếng Kinh, không có người chăm sóc hướng dẫn nên khi một người bị phát hiện bị bệnh phong là sẽ bị đuổi khỏi làng và phải đi sâu vào trong rừng. Còn những người bệnh nhẹ hoặc đã chữa lành bệnh nhưng lại bị tàn phế, tật nguyền nên việc lao động làm ăn rất khó khăn… Chính vì thế Cha cùng vận động các mạnh thường quân và cac Dì Phước giúp những gia đình bệnh phong cùi này có được một mái nhà nhỏ để ở, giúp con cái họ đi học hoà nhập với cuộc sống, hàng tháng cấp phát lương thực, gạo, thuốc men cho các làng xa xôi, heo hút giúp họ tồn tại, nhưng thỉnh thoảng những công việc không lương này cũng gặp trở ngại khó khăn bởi những định kiến của chính quyền địa phương…
Việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ mồ côi trên vùng Tây Nguyên này cũng vô cùng gian nan, đa số các em mồ côi đều là người dân tộc nhưng chỉ mồ côi cha hoặc mẹ vì theo quan niệm của người dân tộc khi mẹ chết là chôn sống đứa con theo mẹ. Còn với dân tộc Jarai theo mẫu hệ nếu mẹ chết thì con cho người Dì nuôi nhưng hiện nay có các trường hợp mồ côi nhưng vẫn còn cả cha lẫn mẹ vì các bé bị suy dinh dưỡng, bố mẹ nuôi không nổi nên đem cho các nhà mồ côi. Hầu hết 2 nhà mồ côi ở Kontum đều do các Dì phước người dân tộc phụ trách với khoảng 400 em, ở Pleiku có 1 nhà mồ côi khoảng do các Dì Phước người Kinh phụ trách…


Chưa dừng lại Cha còn muốn làm cách nào để giúp đồng bào dân tộc hết nghèo đói ở mức tối thiểu như có cái ăn cái mặc, có nước sạch, có các điều kiện về y tế. Sau đói nghèo chính là giáo dục để hôm nay gieo mầm tương lai sẽ có nhiều các em dân tộc bước vào cổng trường đại học, cao đẳng, trung cấp… và mang cái chữ, cái nền văn minh đến cho chính dân tộc mình, vì theo cách nhìn của Cha, chỉ có người dân tộc mới cứu chính họ thoát khỏi đói nghèo, mà cũng chỉ chính họ mới giúp họ văn minh, và Cha tin tưởng rằng trong tương lai người dân tộc ở Pleiku và Kontum thay da đổi thịt, sẽ văn minh như chúng ta ngày hôm nay…

Bài ghi nhận này tôi viết cách đây gần 10 năm trong những chuyến đi công tác tại Tây Nguyên và hôm nay khi đọc đoạn Lời Chúa theo Thánh Mattheu nhân Lễ Kính các Thánh Anh Hài khiến tôi muốn chia sẻ bài viết trên.

Mt 2, 13-18

Khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrođê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrođê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập". Bấy giờ Hêrođê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.

Thời Chúa Giê su vừa sinh ra, chỉ vì sự "thất tín" của 3 nhà đạo sĩ Phương Đông mà Hêrôđê ra tay tàn sát tất cả các trẻ trai bé nhỏ tại Be lem vì sợ ngôi Vua của ông ta bị lung lay. Nhưng thời nay chẳng có thế lực nào ngăn cản, đe dọa nhưng số lượng thai nhi bị giết chết ngay từ khi còn trong bụng mẹ, chỉ là một giọt máu hoặc may chăng vài ba tháng tuổi lại là con số vô cùng khủng khiếp. Cách đây 10 năm, Nghĩa Trang Đồng Nhi Pleyku có con số hơn 12 ngàn sinh linh, thì ngày nay đã có hàng chục, hàng trăm nghĩa trang Đồng Nhi như thế mà không thể thống kê chính xác được con số đã lên tới hàng trăm ngàn... Các hài nhi này chẳng có tội tình chi nhưng vì cái gọi là tự do trong tình yêu, trong lối sống buông thả, đua đòi mà chính những người mang danh là mẹ đã nhẫn tâm "cướp" đi quyền làm con người của chính con mình...

Khi xưa một Hài nhi vừa sinh ra nằm trong máng cỏ, tuy bé nhỏ nhưng rất cao cả và khiến cho một vị Vua như Hêrôđê phải sợ hãi và ra tay tàn sát tất cả các trẻ nhỏ. Các bé chẳng có tội tình chi nhưng phải chết vì Chúa Ki tô. Tiếng khóc than của cha mẹ các trẻ nhỏ này đã vang đến tận cùng trời đất và cho dù các bé chưa nói, chưa có trí khôn nhưng đã trở thành những chứng nhân anh dũng vì Danh Đức Ki tô.

Chẳng bao lâu sau tiếng đàn ca xướng hát của các thiên thần trong đêm Chúa Giáng Sinh là tiếng khóc than rền rĩ của những bà mẹ mất con trong cuộc sát hại con trẻ ở Bêlem của Hêrôđê. Chẳng lẽ việc Chúa ra đời lại là nguyên nhân gây ra cái chết của trẻ thơ vô tội? Không, Thiên Chúa đã tạo dựng con người và ban cho con người tự do. Hêrôđê có tự do, và ông đã lạm dụng tự do để sát hại trẻ thơ, hầu trút cơn giận dữ và thoả lòng ghen tị. Tôi, bạn và tất cả mọi người ai cũng có tự do, và tự do của chính mỗi người đã được sử dụng để vun đắp sự sống hay để huỷ diệt sự sống?

Lạy Chúa, trong xã hội hôm nay, ngay tại thế giới mà con đang sống đã, đang và tràn đầy những thảm họa do con người vì lạm dụng cái gọi là chủ nghĩa tự do cá nhân mà gây ra biết bao tội lỗi. Xin Thần Khí Chúa cho con biết sử dụng tự do của mình để làm vinh danh Chúa  và mang lại niềm hạnh phúc cho mọi người xung quanh.





Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Gia đình nhỏ hạnh phúc to!

Một nụ cười bé,cha vui cả ngày 
Một vài tiếng khóc,mẹ lo hằng đêm 
Thầm cầu mong cho,con sẽ an lành 
Chín tháng sinh thành,một đời yêu thương. 

Một vòng tay lớn,ôm con vào lòng 
Một bàn chân to,cho con tập đi 
Dù ngày mai khi,con lớn lên người 
Nhưng với cha mẹ,vẫn mãi bé thơ. 

À ơi à ơi,con ngủ cho ngoan 
Giấc mơ sẽ mang,đầy lời mẹ ru 
À ơi à ơi,mãi mãi chúng ta 
Một gia đình nhỏ,một hạnh phúc to.

Ca khúc Gia đình nhỏ hạnh phúc to của nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung sáng tác trong Album My Family diễn tả một mái ấm gia đình, một gia đình nhỏ bé khi đứa con trai chào đời nhưng đó lại là một niềm hạnh phúc vô biên mà có lẽ tất cả những ai đã, đang sống trong đời sống hôn nhân gia đình mới cảm nhận được....

Có một gia đình cũng rất đơn sơ khiêm nhường và nghèo hèn. Cha làm nghề thợ mộc - một nghề mà trong xã hội ngày nay con người đã sử dụng đến tất cả các phương tiện máy móc để thay thế sức tay chân của con người. Mẹ làm công việc nội trợ, còn chàng trai bé nhỏ cũng tập tành theo nghề cha và sống trong một làng quê thanh bình. Gia đình nhỏ ấy không giàu sang vật chất, không siêu xe nhà lầu biệt thự nhưng luôn ngập tràn niềm vui và hạnh phúc vì niềm vui chỉ giản đơn là người con luôn thảo hiếu và vâng lời cha mẹ. Gia đình nhỏ bé ấy chính là Gia Đình Thánh Gia!





Lời Chúa: Lc 2, 41-52

Hằng năm, cha mẹ Ðức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.

Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Ðền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.

Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Ðức Giêsu, ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến.


Trong mỗi gia đình Ki tô giáo thường treo ảnh Thánh Gia, hoặc mỗi khi trong giáo xứ, người thân có tiệc hôn nhân thì người được mời thường tặng cho đôi tân lang bức tượng hoặc bức ảnh Thánh Gia. Ý nghĩa và tầm quan trọng của bức tượng này như thế nào có lẽ trong mỗi người chúng ta chưa có thời gian hoặc cũng không hiểu ý nghĩa tận tường, nhưng trong niềm tin đơn sơ và thành kính đơn thuần chỉ là một sự thờ kính, tôn sùng và ước mong nhận được, nhân danh Thánh Gia Thất, phước lành từ trời cao giúp giải quyết được những căng thẳng trong đời sống phu thê ngày càng cam go và nhiều thách đố giữa xã hội hôm nay.

Thánh Gioan, người môn đệ theo sát Thầy Giê-su nhất, đã dần học được cái bổn phận căn bản này; và một khi học được, vì là người môn đệ được tựa đầu vào ngực Chúa, ngài đã mạnh mẽ thốt lên: “Anh em hãy thương yêu nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa…Tình yêu cốt ở điều này… chính Người đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4:7-16). Mọi gia đình Ki-tô, bắt đầu từ chính Thánh Gia Thất, đều phải học thuộc bài học này. Giu-se cũng phải học, cả Maria cũng thế. Bài học yêu thương tha thứ cho nhau, vì biết rằng Thiên Chúa là người thứ nhất đã yêu thương và tha thứ, thì ai cũng phải học, đơn giản vì ai cũng có thể bực dọc hay phật lòng (bất kể có lý do chính đáng hay không). Và bài học này thực tế không dễ hiểu và lãnh hội chút nào, chưa nói tới việc đem nó ra thực hành, vì không đặt nền tảng trên lý luận hay hợp lý; nó cũng chẳng tỏ ra công bằng gì! Chỗ dựa duy nhất của kêu mời Tin Mừng này là niềm tin vào Ki-tô Giê-su, tin vào sự điên rồ hay ngu xuẩn của Thập giá tha thứ và cứu độ. Kể cả Giu-se và Ma-ri-a cũng phải cảm thấy khó khăn và bối rối, “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói…”, chính vì vậy mà “riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Chính ở điểm này mà Thánh Gia thật gần gũi với đời thường chúng ta, vì gia đình chính là môi trường, nơi mà tình yêu tìm được cách biểu lộ chân thực nhất giữa các thử thách cam go. Trong tất cả mọi môi trường được gọi là gia đình (kể cả gia đình cộng đoàn tu sĩ hoặc các gia đình Giáo Hội) nơi qui tụ và ‘chung sống’ những con người bất toàn, thì bất hòa hay bực dọc sẽ mãi mãi vẫn là chuyện cơm bữa, thì tình yêu thương xót và tha thứ bắt nguồn từ Tin Mừng Cứu độ của Thiên Chúa sẽ luôn có dịp cất lên tiếng nói mãnh liệt nhất của mình. Gia đình chính là môi trường Tin Mừng số một, nơi mà cùng với Thánh Gia, chúng ta được mời gọi thể hiện Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày, chu toàn ‘bổn phận ở nhà của Cha’!  ( Trích Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB )


"Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".

Hãy noi gương Thánh Gia, nơi đó Đức Mẹ và Thánh Giuse yêu thương nhau, cùng hợp sức nuôi dạy Chúa Giêsu. Còn Đức Giêsu thì hằng yêu thương và vâng phục cha mẹ mình. Nhưng trên hết tình yêu của Thánh Gia đặt nền tảng trên tình yêu dành cho Thiên Chúa.

Gia đình sống đức tin khi từng thành viên góp phần của mình vào việc xây dựng gia đình. Mỗi người hãy sống đúng bổn phận của mình trong gia đình. Thánh Giuse là một người cha mẫu mực, khôn ngoan quán xuyến mọi sự trong chức vụ gia trưởng nhưng cũng hết tình phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Những người cha trong gia đình hãy biết học đòi nơi mẫu gương ấy. Người làm mẹ cũng hãy học hỏi nơi Mẹ Maria mẫu gương về tình yêu, đức nết na, đức tin, sự phục vụ và khiêm tốn hết lòng. Dù là Mẹ Đấng Cứu Thế nhưng Mẹ Maria đã xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Những người con hãy học nơi Chúa Giêsu đức vâng lời, lòng tôn kính biết ơn. Là Thiên Chúa nhưng Người đã chấp nhận trở nên một người con nhỏ nhất trong gia đình hằng vâng phục cha mẹ trong tình yêu.


Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mọi gia đình sự thuận hòa yêu thương, sự bình an thật sự để cha mẹ, con cái, cháu chắt luôn sống trong sự kính sợ Chúa và quảng đại, chia sẻ, tha thứ, cảm thông với nhau. Amen.

Đường đi khó không khó!

Ngay từ thuở bé thơ, khi tham gia các sinh hoạt tôi vẫn thích bài hát " Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông. Anh em ta ơi đường dài còn dài còn nhiều trở ngại còn nhiều gian khó anh em ta ơi quyết tâm vượt qua"...

Con đường cuộc đời chẳng có con đường nào là bằng phẳng và bình an. Có những con đường hun hút heo may, tràn ngập sỏi đá nhưng cũng có đầy những con đường thênh thang để mỗi bước chân, mỗi hành trình con số cuộc đời dẵn dắt ta đi trên từng con đường, để rồi khi ta sinh ra chập chững những bước chân đầu tiên cho đến khi vê già, cũng lại là chập chững những bước chân già nua. cả cuộc đời, cả hành trình đời người ta không có sự lựa chọn được đi hay vị đi, nhưng chính trong sự sắp xếp tuyệt vời của tạo hóa mới khiến cái con đường gian khó nhất chính là con đường nội tâm của mỗi con người...

Abraham Lincoln có một viên đại úy cận vệ rất can đảm, lúc nào anh cũng muốn đòi Tổng Thống cho anh ra chiến trường để chiến đấu chứ không thích làm công việc cận vệ kiêm thư ký tẻ nhạt và chán ngắt hằng ngày. Một hôm Tổng Thống nói với anh:”Này anh, anh cứ đòi chết cho tổ quốc ; nhưng lúc này tôi lại đang muốn anh sống cho tổ quốc cơ!”.

Ngày 26/12, Tuần bát nhật lễ Giáng Sinh - Thánh Stêphanô, phó tế tử vì đạo tiên khởi
Lời Chúa:  Mt 10,17-22
17 Ngày ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp các con cho công nghị, họ sẽ đánh đòn các con nơi hội đường. 18 Vì Ta, các con sẽ bị điệu đến trước vua quan, để làm chứng trước mặt họ và các dân. 19 Nhưng khi người ta nộp các con, các con chớ lo lắng phải nói sao và nói gì, 20 vì không phải các con nói, nhưng là Thánh Thần của Chúa Cha các con sẽ nói thay cho. 21 Anh sẽ nộp em cho người ta giết; cha sẽ nộp con; con cái chống đối cha mẹ và làm cha mẹ phải chết. 22 Vì Ta, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi.

                                                             (Nguồn: Uỷ ban Thánh Kinh / HĐGMVN)

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi. Vị anh hùng đầu tiên trong Giáo Hội đã lấy máu mình làm chứng về đức tin Kitô Giáo. Cái chết của Ngài đã làm cho bao tâm hồn được tái sinh trở lại trong Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, ngày hôm nay có lẽ chúng con chưa có cơ hội chết vì đạo như Thánh Stephanô, nhưng chắc chắn chúng con đang được Chúa mời gọi sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa. Chúa mời gọi chúng con hãy biết đón nhận và thực hành Lời của Ngài trong cuộc sống. Đó là Lời mà Con Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và dạy cho con người. 

Xin Chúa giúp chúng con biết siêng năng học hỏi và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống, biết phấn đấu đi vào con đường hẹp trong hy sinh từ bỏ để vào Nước Chúa. Xin ban ơn can đảm để chúng con nói không với tội lỗi và trung thành với Chúa cho đến cùng. Amen.

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Chúa vẫn buồn khi nhìn thấy nhân loại khổ đau!

Có một lần nói chuyện với một em thiếu niên mới ra tù. Tôi hỏi: Con làm gì mà phải vào tù?. Em trẻ lời: Ba má con cãi nhau mỗi ngày. Ba thì nóng tính, chửi bới con cái suốt ngày. Không khí trong nhà lúc nào cũng căng thẳng nên con đi chơi với bạn. Bạn rủ con đi bán thuốc phiện và con bị bắt!.
Rồi một lần khác có dịp nói chuyện với một người vợ đang muốn ly dị chồng. Tôi hỏi lý do tại sao? Chị ấy nói vì chồng thiếu tình thương, hay đánh đập và cũng bồ bịch lăng nhăng. Con không thể sống chung với anh ta được nữa!
Nghe thật đau lòng! Nhưng ở đời là vậy. Con cái thiếu tình thương thì phạm pháp. Vợ chồng thiếu tình thương thì ngoại tình. Cha mẹ thiếu sự quan tâm của con cái thì tủi hận. Giữa người với người thiếu tình thương thì xảy ra những xung đột tranh chấp, hãm hại lẫn nhau. Cuộc sống thiếu tình thương khiến con người chỉ làm hại và gây đau khổ cho nhau.
Đức Giáo Hoàng Phanxico khi nhìn vào thế giới đầy chết chóc bởi khủng bố tàn bạo, Ngài nói: “Trước tất cả những việc tàn bạo này, Thiên Chúa khóc, Chúa Giêsu khóc vì chúng ta chọn con đường chiến tranh, thù ghét, hận thù. Chúng ta sắp mừng lễ Giáng sinh: sẽ có đèn đuốc sáng trưng, sẽ có lễ lạc, có cây thông lung linh đèn màu, có máng cỏ... Nhưng tất cả đều giả tạo: thế giới vẫn tiếp tục chiến tranh. Thế giới không hiểu con đường hòa bình.”
Hôm nay bầu khí Noel thật náo nhiệt. Náo nhiệt bởi dòng người đi lại trên phố. Náo nhiệt bởi ai ai cũng rạng rỡ nụ cười và trao cho nhau những lời chúc giáng sinh an bình. Náo nhiệt bởi những bài hát thánh ca giáng sinh đang rộn ràng khắp không gian. Nhưng liệu những hào nhoáng này có phải là giả tạo không? Con người có thực sự mang lại bình an cho nhau hay vẫn khích bác, nói xấu, kết án lẫn nhau? Con người sống bên nhau có chọn giải pháp hòa bình hay vẫn tìm cách gây hấn và chia rẽ nhau?
Nếu vậy, Chúa giáng sinh vẫn buồn vì khi xưa Ngài giáng thế thiếu tình thương của đồng loại và hôm nay Ngài vẫn buồn khi anh em Ngài vẫn thiếu lòng bao dung với nhau. Chúa buồn vì Chúa mang hòa bình đến cho nhân gian mà nhân loại lại tìm cách phá hoại hòa bình. Chúa buồn hơn nữa vì chính những người xưng mình là môn đệ Chúa lại đang phá đổ nền hòa bình mà Chúa đã thiết lập.
Cuộc đời sẽ đẹp hơn nếu biết bỏ đi những giận hờn ghen ghét để mang an bình hạnh phúc cho nhau. Cuộc đời sẽ tươi hơn nếu ai cũng sẵn lòng trao ban tình thương tha thứ cho nhau, chứ không nuôi dưỡng hận thù. Và Noel sẽ ấm áp hơn khi mọi người biết trao yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm . . .
Vâng, Chúa xuống trần để mang hòa bình cho nhân thế. Hòa bình chỉ có khi tự bản thân chúng ta bỏ đi những tham sân si để sống bác ái yêu thương ngay với người thân của mình. Hòa bình sẽ ngự trị khi chính tâm hồn chúng ta không nuôi dưỡng những hận thù tranh chấp.
Xin cho mùa Noel này là mùa của hòa giải, mùa của yêu thương để xóa đi những nỗi đau của hận thù chia rẽ, ngõ hầu cùng nhau xây dựng một trời mới đất mới ngập tràn yêu thương. Xin cho nền hòa bình sẽ ngự trị và công lý sẽ nở hoa trong cuộc sống hôm nay. Amen
Lm. Jos Ta Duy Tuyền

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

Chia sẻ niềm vui!

Cuộc sống là một cuộc cất bước ra đi. Đi đến để nâng đỡ, để đem niềm vui, để thông cảm, để sẻ chia. Nếu mỗi người ý thức điều đó thì: "Niềm vui biết sẻ chia sẽ tăng lên gấp đôi, và nỗi buồn được sẻ chia sẽ vơi đi một nữa".

Cuộc đời con người còn là một cuộc hành trình, và cuộc hành trình nào cũng có nhiều mơ ước: mơ ước được gặp gỡ, mơ ước được hạnh phúc, mơ ước được sống trong tự do, và mơ ước được xây dựng một đời sống hạnh phúc. Do đó, cuộc hành trình nào cũng chứa đựng nhiều hăm hở.

Và tôi đã có một trong nhiều lần hăm hở ra đi và hăm hở chia sẻ niềm vui ấy cho những người tôi đã gặp, nhưng mỗi chuyến đi lại là một niềm vui khác và mỗi con người tôi đã gặp cho dù cũng là những hoàn cảnh sống "bần cùng" trong xã hội và điều cảm nhận niềm vui ấy tuy nhỏ bé nhưng lại rất thẩm sâu...

Tối hôm qua, một cuộc gặp gỡ sau 20 năm. Ngày ấy tôi chỉ cô bé tuổi ăn chư no lo chưa tới nhưng những gì tôi học được nơi người là một bầu trời nhân bản, để rồi hôm nay khi nghe tin người đang ở kề bên, thế là chị em chúng tôi đến viếng thăm - một cuộc viếng thăm bất ngờ cho người được thăm viếng và kẻ đi viếng thăm...

20 năm - người được thăm viếng mới ngày nào tràn đầy sức sống nay tựa như cây già mỏng manh trước gió, mái tóc đã ngả màu trắng nhiều hơn đen, thân xác già cỗi theo tuổi đời, theo thời gian nhưng tinh thần vẫn luôn luôn cháy bỏng lòng nhiệt thành, tinh thần yêu tha nhân và giọng nói vẫn luôn nhẹ nhàng bay bổng.
Những kẻ đi viếng thăm là chị em chúng tôi đứa trẻ nhất cũng tầm 40, người lão nhất đã 60 xuân, thế mà 3 thế hệ chúng tôi vẫn kề cận bên nhau, vẫn luôn nhớ về những kỉ niệm xa xưa. Và cũng nhờ cái gọi là lối sống cũ xưa ấy mà chị em chúng tôi mới có những cơ hội được đi, được đến và được chia sẻ niềm vui với mọi người.

Cuộc viếng thăm thứ hai trong buổi tối ngoài dự định nhưng thật bất ngờ và không ngờ. Bất ngờ vì nơi tôi đến là một Cộng Đoàn noi gương Mẹ Teresa Calcutta. Nữ tu phụ trách Cộng Đoàn là người mà tôi có dịp tiếp xúc từ 10 năm trước và nay bất ngờ gặp lại. Điều không ngờ chính nơi đây tôi đã được gặp, được hát hò, vui chơi và chia sẻ nụ cười với những cụ già neo đơn, không người thân. 13 cụ là 13 mảnh đời khác nhau, có những cụ tuổi đã cao, sức đã yếu, đầu óc lú lẫn, nằm liệt một chỗ, có những người còn tí chút sức khỏe những tất cả những hình ảnh này in đậm trong tâm trí tôi và tôi nhớ đến hình ảnh Mẹ Maria sau khi đón nhận Hài Nhi Giêsu, Mẹ cũng vội vã chia sẻ niềm vui ấy cho người chị của mình và cho tất cả nhân loại chúng ta!

Lc 1, 39-45

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi đã đón nhận Chúa Giêsu vào lòng, Mẹ Maria đã đem Chúa đến cho người khác. Khi Chúa đến trong tâm hồn ai thì Chúa thường mở rộng tâm hồn người ấy, để họ cũng nghĩ đến những người chung quanh của mình.

Nghĩ đến người khác, đến với người khác, đó là dấu chỉ có Chúa trong tâm hồn. Chính vì thế mà sau khi được thụ thai Chúa Giêsu vào lòng mình và khi người chị họ của mình đang cần sự giúp đỡ, Mẹ Maria đã lên đường ngày, không chút do dự. Như thế, biết tìm đến với những người khác, nhất là con người ở trong những hoàn cảnh khó khăn, đó là dấu chỉ của một tâm hồn có Chúa.

Và bất ngờ niềm vui này tôi muốn được kêu gọi những người bạn, người thân và tất cả mọi người cùng đóng góp để sẻ chia chút gì gọi là dấu chỉ của niềm vui. Một vài cuộc gọi điện thoại, những thiên thần Chúa gửi đến qua "cánh chim bổ câu" mang chút niềm vui bé nhỏ đến với những cụ già neo đơn nơi đây. Một chút đóng góp vật chất không thể gọi là hy sinh nhưng một chút niềm vui được sẻ chia chắc chắn sẽ trở thành những niềm vui lớn không chỉ cho người được nhận và cho chính những tâm hồn quảng đại biết và dám cho đi...

Mùa vọng là mùa của hy vọng, của sự cưu mang, của sự cất bước ra đi. Tôi, bạn và mọi người chúng ta hãy để Hai Nhi Giêsu được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn mỗi người, trong suy nghĩ và hành động. Và cùng với Chúa Hài Đồng ta hãy ra đi đến với người khác. Chúng ta hãy biến mọi cuộc gặp gỡ thành những cơ hội phục vụ, yêu thương, quên mình, tha thứ và vui tươi.