Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2017

Chiều Chúa Nhật buồn

Hôm ấy là ngày đầu tuần, vào buổi chiều, có hai người bạn đồng hành cùng đi về hướng Emmaus, trong tâm trạng buồn rầu chán nản. Họ vừa bừng tỉnh sau một giấc mộng không thành. Họ bước theo một người Nadarét với hy vọng sẽ được tham gia cuộc giải phóng dân tộc, nhưng người Nadarét ấy không còn nữa. Ông đã bị đóng đinh vào thập giá. Nhưng quên làm sao được khuôn mặt của một người thầy, một người bạn, một người mà các ông coi như là một tiên tri, một người mà Phêrô đã tuyên xưng là Đức Kitô. Vì thế các ông vừa đi vừa kể lại cho nhau những kỷ niệm khó quên.

Chúa Nhật 3 PHỤC SINH năm A.
Lời Chúa: Lc 24, 13-35:

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Em-mau, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người.

Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".

Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.

Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"

Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.


Đang lúc các ông lê bước, buồn sầu, hoang mang như vậy thì bỗng có một người thứ ba cùng đi theo một hướng. Người lạ này có vẻ như muốn nhập bọn đồng hành với hai ông. Các ông đi chậm lại và người bạn đồng hành mới đuổi kịp các ông. Ông bạn mới này có vẻ tò mò, ông không ngần ngại lên tiếng hỏi: Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy? Các ông đáp: Ông không biết chuyện gì vừa mới xảy ra tại Giêrusalem ư? Chuyện ông Giêsu người Nadarét đó. Thế là các ông thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho ông bạn mới. Không ngờ vừa nghe xong, ông bạn mới bèn buông lời trách móc: Người đâu mà tôi tăm ngu muội thế. Chưa kịp chống đỡ, thì người bạn đồng hành với đã thao thao bất tuyệt đem lời Kinh Thánh ra để chứng minh rằng: Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang.

Câu chuyện còn đang tiếp tục thì hai ông đã đến nơi mình định đến. Với tinh thần hiếu khách, các ông mời người bạn mới vào quán trọ. Và thế là các ông nhận ra Ngài lúc bẻ bánh. Các ông vội quay trở lại Giêrusalem để đem tin mừng cho các anh em khác. Các ông chưa kịp kể hết, thì đã được các anh em khẳng định rằng Chúa đã sống lại và hiện ra với Phêrô.

Niềm tin đã trở nên vững chắc, mọi đau buồn đã tan biến, mọi ngờ vực đều đã được giải toả. Chiều thứ nhất u buồn đã được đổi thành chiều Chúa nhật vui tươi. Cũng như hai môn đệ trên đường Emmaus, một số tín hữu hôm nay cũng đang rời bỏ Giêrusalem, nghĩa là rời bỏ đức tin, rời bỏ Giáo Hội. Đối với một số người nào đó, chiều Chúa nhật đã trở thành chiều Chúa nhật buồn. và có những người tuy rời bỏ Giáo Hội, hoang mang mất niềm tin nhưng vẫn chưa dứt ra được cái quá khứ Kitô giáo của mình. Nhất là đối với những người lớn tuổi. Theo những bản thăm dò bên Âu Mỹ, thì nhiều người bỏ đạo trong thời niên thiếu, nhưng sau 60 tuổi thì lại lục đục trở về. Tổng thống Mitterrand, trong những ngày cuối đời, đã dí dỏm trả lời người phỏng vấn ông về cái chết: Nếu có Chúa, thì tôi tin rằng Ngài sẽ nói với tôi: Cuối cùng thì ông đã đã đến. Thôi, vào đi.

Thái độ hoài nghi của nhiều người thời nay cuối cùng vẫn không hoàn toàn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi lương tâm mình bởi vì dù sao thì Người vẫn hiện diện một cách nào đó trong cuộc đời chúng ta như Người đã xác quyết: Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Và hình bóng của Người có lẽ dễ cảm nhận hơn khi mà đường đời chúng ta sắp chấm dứt.

Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

VỮNG MỘT NIỀM TIN



Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng quý giá. Có một người dân thành thị về chốn thôn dã tìm hái hoa này. Anh ta nghĩ hoa quý, ắt phải nở trên đỉnh núi cao, bèn cố sức trèo lên đỉnh núi tìm hoa. Lên đến đỉnh núi, anh ta lục lạo suốt buổi mà chẳng thấy bông hoa nào, đành thất vọng xuống núi, ra về tay không.

Hôm sau, anh ta lại tìm theo lối cũ lên núi lục lạo thêm một phen nữa, vẫn không kiếm ra. Ngày thứ ba, anh vẫn chưa nản chí, tiếp tục leo lên đỉnh núi tìm hoa bạch chỉ. Anh tự nhủ:

- Giống hoa quý này chỉ có trên đỉnh núi cao, ta không tin là sẽ không kiếm ra nó trên đỉnh núi cao!

Nhưng cuối cùng, anh ta vẫn không kiếm ra loại hoa quý này. Trong lúc chán nản thất thểu xuống núi, anh ta chợt thấy trong đám cỏ mọc dướii chân núi có hoa bạch chỉ. Đáng tiếc là nó đã bị chính anh giẫm nát mất rồi.

* * *

Những người quá tin vào ý nghĩ chủ quan của mình thường cố cháp, không lắng nghe ai, để rồi công sức của mình đều đem ra đổ sông, đổ biển. Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh, hiện ra với các tông đồ, vắng mặt Tôma.

Chúa Nhật 2 PHỤC SINH năm A 
Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Lời Chúa: Ga 20, 19-31:

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".

Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.



Vì thế, khi nghe các môn đệ khác nói: "Chúng tôi đã được thấy" (Ga 10,25), ông đã không tin. Tôma đúng là một con người của thực nghịệm, việc gì cũng đòi phải kiểm chứng, đòi phải "thấy và chạm đến" mới tin. Nhưng thực ra đâu phải những gì "thấy mới tin". Có ai thấy lúc cha mẹ sinh ra mình đâu, thế nhưng vẫn tin đó là cha mẹ của mình. Có ai thấy luồng điện chạy qua sợi dây điện đâu, thế mà mọi người vẫn tin là có điện ở trên đó. Người ta thường "tin" vào các sự kiện mà người khác "thấy". Chúng ta tin Đức Thánh Chsa đang cai quản Hội thánh tại kinh thành Roma, co dù chúng ta chưa bao giờ thấy ngài. Chúng ta tin Đức Kitô chết và sống lại , cho dù chúng ta chẳng hề thấy người. Niềm tin của chúng ta chỉ dựa vào lời chứng của các Tông đồ: "Chúng tôi đã được thấy Chúa".

Như thế, niềm tin đâu chỉ dựa vào giác quan mà còn dựa vào đức tin của những kẻ đã "thấy và đã tin", những kẻ đã dám lấy cái chết để chứng minh cho niềm tin của mình.

Nếu Đức Kitô đã thỏa mãn lòng mong ước của Tôma là cho ông được "thấy và chạm đến" vết thương của Người là để củng cố niềm tin của ông. Đôi khi trong cuộc sống, Thiên Chúa cũng cho chúng ta được "thấy và chạm đến" những quyền năng phép lạ, những hồng ân bất ngờ, là để chúng ta thêm niềm tin tưởng nơi Người.

Đứng trước ân ban của Đức Giêsu cho Tôma được "thấy và chạm đến" Người, thì ông đã đáp lại bằng một cử chỉ tuyệt vời, là sấp mình xuống thưa:

"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" ! (Ga 20,28). Lời tuyên xưng của Tôma quả là rõ ràng, trong suốt như pha lê. Đó là niềm tin của chúng ta. Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại. Người là Chúa và là Thiên Chúa thật. Chính nhờ Tôma mà niềm tin của chúng ta được chúc phúc: "Phúc thay những ngưồi không thấy mà tin" (Ga 20,39).

* * *

Lạy Chúa, Đức tin là một ân huệ Chúa ban, chúng con xin cảm tạ Chúa. Xin thêm đức tin cho chúng con, để dù bao thăng trầm của cuộc sống, chúng con vẫn vững một niềm tin vào Thiên Chúa và con người. Amen.

(Như Thầy Đã Yêu" của Thiên Phúc)

Thứ Ba, 18 tháng 4, 2017

sự sống lại

Có một câu chuyện kể lại rằng: một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.

Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon! Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.

Thứ Tư trong tuần bát nhật Phục sinh
Lời Chúa: Lc 24,13-35:
13 Cũng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số.14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ : "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.

18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời : "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." 19 Đức Giê-su hỏi : "Chuyện gì vậy ?" Họ thưa : "Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy."

25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng : "Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.

28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng : "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau : "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?"

33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông : "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn." 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.


Vâng, sự sống lại đã đem lại niềm vui cho các tông đồ, đem lại sức sống mới nơi các tông đồ. Từ thất vọng nay hân hoan. Từ sợ hãi nay can trường. Từ không có lý tưởng nay dấn thân hết mình để loan báo tin vui Chúa Phục sinh. Chính thánh Phao-lô cũng mạnh dạn nói rằng: “nếu Đức Ky-tô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi cũng vô ích”.

Thế nhưng, để có thể đón nhận sự kiện Chúa phục sinh cũng cần phải có đức tin. “Tin để thấy”. Đây chính là một nguyên tắc được Chúa Giêsu đề cao khi Ngài nói với Thánh Tôma tông đồ : “Con đã thấy nên con mới tin, phúc cho những ai không thấy mà tin” (Jn 20, 28-29). Không thấy mà tin, hãy tin để được thấy, đây chính là nguyên tắc niềm tin được mời gọi mỗi Kitô hữu xác tín trong cuộc sống hàng ngày.

Quả thật, niềm tin luôn cho chúng ta thấy và cảm nghiệm được sự hiện diện của Đấng Phục sinh; giữa những mất mát khổ đau, một niềm tin luôn cho phép và thúc đẩy chúng ta tiếp tục tin yêu và hy vọng; giữa những ích kỷ hận thù, niềm tin vẫn tiếp tục giúp chúng ta sống quảng đại yêu thương và tha thứ.

Sống tin yêu và hy vọng, sống quảng đại và tha thứ chắc chắn chúng ta sẽ cảm nghiệm được Chúa Kitô Phục sinh sẽ mang đến cho chúng ta. Đây chính là phần thưởng lớn lao cho những ai tin để được thấy và cảm nghiệm được Đấng Phục sinh. Amen. 

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Thứ Hai, 17 tháng 4, 2017

TÊN NGƯỜI THÂN!

Một sinh viên cao đẳng đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh ta nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi tên từng em như một người bạn thân. 

Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả các học sinh thân yêu tụ tập xung quanh anh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng. Nhưng buồn thay, trong số các học sinh anh đã quên tên mất một em. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng. 

Quả thực, tên người thân quan trọng. Được nhớ tên là một vinh dự. Được gọi tên lại càng vinh dự hơn. Được nhớ, được gọi là một tình cảm mà người khác dành cho ta. Nó biểu lộ sự quý mến, lòng trân trọng mà người khác dành cho ta. Thế nên, khi được gọi tên một cách trìu mến thân thương khiến con người như được bay bổng lên, tâm hồn cảm thấy hạnh phúc biết bao!

Thứ Ba trong tuần bát nhật Phục sinh!
Lời Chúa: Ga 20,11-18:
11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : "Này bà, sao bà khóc ?" Bà thưa : "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !" 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?" Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về." 16 Đức Giê-su gọi bà : "Ma-ri-a !" Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : "Ráp-bu-ni !" (nghĩa là 'Lạy Thầy'). 17 Đức Giê-su bảo : "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ' Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em '." 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

Maria, hôm nay cũng được gọi tên đích danh. Maria, Chúa đã gọi cô sau khi Ngài sống lại. Lời gọi của Chúa đã phá tan nỗi thất vọng nơi Maria. Lời gọi của Chúa đã làm cho tâm hồn Maira tươi trẻ sau những ngày đen tối buồn đau.

Cuộc đời chúng ta cũng hạnh phúc biết bao khi Chúa vẫn đang trìu mến gọi đích danh chúng ta. Chúa vẫn gọi chúng ta hãy vững tin vào Chúa giữa những thử thách cuộc đời. Chúa vẫn gọi chúng ta can đảm đứng dạy sau những lần vấp ngã ê chề. Chúa vẫn gọi chúng ta ra đi loan báo tin vui Chúa phục sinh cho nhân trần.

Ước gì chúng ta luôn biết lắng nghe tiếng Chúa và hân hoan bước đi theo Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết gọi tên nhau bằng sự trìu mến thân thương để mang đến cho nhau niềm vui và hạnh phúc. Xin đừng gọi tên nhau mà lại làm đau lòng nhau. Amen

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

SỐNG TIN MỪNG PHỤC SINH

CHÚA NHẬT PHỤC SINH 2017: 
SỐNG TIN MỪNG PHỤC SINH

Báo Vietnamnet hôm 8/4 đưa tin: Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 40 ngàn người tự tử, đa số những người tự tử là những người trẻ. Một con số đáng để chúng ta suy nghĩ và đặt câu hỏi : Tại sao? Các nhà nghiên cứu tâm lý xã hội cho rằng, những người này bị căng thẳng công việc, gia đình bất ổn, bị stress dưới các áp lực cuộc sống. Nhưng nhìn dưới góc độ tôn giáo, đạo đức, người ta có thể thấy, những người đi đến quyết định tự tử thường là những người cảm thấy trống rỗng trong đời sống. Họ không tìm được ý nghĩa cho cuộc đời, nhất là khi họ thiếu vắng đời sống tâm linh, trống rỗng trong niềm tin, không hy vọng, sẽ dẫn đến tuyệt vọng và tự tử. Cuộc sống không hy vọng là một cuộc sống ngục tù trong chính con người mình.

Kết quả hình ảnh cho tin mừng chúa phục sinh

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng đại lễ Chúa Phục Sinh. Tin Mừng Phục sinh chính là Tin Mừng đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng vào cuộc sống và tương lai. Niềm tin này cũng là động lúc thúc đẩy con người sống và đương đầu với những khó khăn trong tin tưởng và hy vọng.

Tin Mừng Gioan kể lại sự biến đổi của các phụ nữ và các tông đồ sau khi đón nhận Tin Mừng Phục sinh. Trước đó, Tin Mừng cho thấy, ngay từ sáng sớm khi trời con tối, bà Maria Madalena và một số phụ nữ đã ra thăm mộ và thấy tảng đá đã lăn ra. Bà về báo tin cho Simon Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến: Người ta đã đem xác Chúa đi khỏi mộ; chúng tôi không biết họ để Người ở đâu. Chỉ qua một hai câu, Thánh Gioan đã cho thấy các phụ nữ đang sống trong bất an và tuyệt vọng. Đối với các phụ nữ, Thầy Giêsu của họ thực sự đã chết, bao nhiêu tình cảm thương mến dành cho Chúa cùng với bao hy vọng đặt ở nơi Người cũng đã bị chôn vùi. Trước mặt các bà là một bầu trời đen tối và các bà đi ra thăm mộ trong tâm trạng tối tăm mờ mịt của tâm hồn. 

Khi thấy tảng đá đã bị lăn ra khỏi mộ, các bà cũng không thể nhìn thấy một dấu hiệu nào của sự hy vọng, trái lại, suy nghĩ của các bà bị sự tối tăm thất vọng bao phủ. Các bà chạy về báo tin cho các môn đệ trong hốt hoảng: Người ta đã lấy xác Chúa đi khỏi mộ rồi, chúng tôi không biết họ để Người ở đâu. Điều này chứng tỏ, những lời tiên báo của Chúa Giêsu về cái chết thập giá và phục sinh của Người không được các phụ nữ này quan tâm. Họ vẫn suy nghĩ theo thói quen thông thường như bao người khác. Vì thế, họ ra mộ không phải để tìm gặp Chúa Phục Sinh, nhưng chỉ để ướp một cái xác đã chết mà thôi.

Cũng giống như các phụ nữ, cái chết của Chúa Giêsu thực sự đã làm cho các môn đệ kinh hoàng, hoảng loạn. Các ông rơi vào sợ hãi tột cùng khiến người thì bỏ trốn, kẻ thì chối Chúa. Sau khi đã an táng Thầy Giêsu, các tông đồ dù còn sống nhưng tâm hồn của họ đã chết trong sợ hãi. Họ đã quên hẳn những gì Thầy đã truyền dạy cho họ. Vì thế, các ông đã không dễ dàng đón nhận được Tin Mừng Phục sinh. Khi được các phụ nữ chạy về báo tin, chỉ có ông Phêrô và ông Gioan chạy ra mộ để xem sự gì đã xảy ra, các vị khác không phản ứng gì.

Hai người được Thánh Gioan nhắc đến tên, như hai nhân chứng đầu tiên, đó là Simon Phêrô và người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến. Phêrô là người đứng đầu trong các anh em, là thủ lãnh của Giáo Hội, ông cũng là người yêu mến Chúa hơn hết mọi người và Gioan là người được Chúa thương mến hơn hết trong anh em. Chi tiết này cho thấy, những người có một tương quan tình yêu đặc biệt với Chúa Giêsu thì mới có thể đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh. Hai ông đã có hai cách tiếp cận và tin khác nhau khi thấy những dấu chứng của cuộc phục sinh.

Cả hai ông Simon và Gioan đều chạy ra mộ khi vừa nghe báo tin. Điều đó chứng tỏ rằng, với sự thúc đẩy của tình yêu và sự khao khát gặp lại Chúa, các tông đồ đã chạy thật nhanh ra mộ. Với sự kính trọng dành cho Phêrô là thủ lãnh của Giáo Hội và là người có tiếng nói chính thức trong Giáo Hội, Gioan dù chạy nhanh hơn, nhưng đã nhường bước cho Phêrô vào mộ trước. Phêrô bước vào mộ, ông thấy những dấu chỉ còn lại, không phải là dấu chỉ của người đã chết, mà là dấu chỉ của người đang sống, đó là những băng vải, khăn liệm, khăn che đầu không bị xáo trộn, nhưng được gấp gọn gàng và để riêng từng thứ. Dấu chỉ này cũng loại bỏ sự hồ nghi của các phụ nữ cho rằng: Người ta đã lấy xác của Thầy. Nếu đây là một vụ trộm xác như các phụ nữ đã nói, thì hiện trường sẽ là một mớ hỗn độn, xáo trộn chứ không thể mọi thứ được gấp lại và xếp đặt gọn gàng.

Khác với Phêrô đã tin Chúa Phục sinh nhờ các dấu chỉ là ngôi mộ trống, các băng vải được xếp gọn gàng, Gioan đã tin nhờ trực giác của tình yêu và lòng cung kính tôn thờ. Gioan đã đến mộ trước Phêrô, khi nhìn thấy ngôi mộ trống, phản ứng đầu tiên của Gioan là cúi mình xuống. Đây chính là thái độ cung kính của Gioan trước một màu nhiệm vượt quá sức tưởng tượng và lý lẽ thông thường của loài người. Với thái độ cung kính tôn thờ, Gioan đã bước vào mộ theo sau Phêrô. Chi tiết này một lần nữa cho thấy dù Gioan tin nhờ trực giác của tình yêu, nhưng ông vẫn chờ đợi tiếng nói của Simon Phêrô là thủ lãnh của Giáo Hội. Ông kể lại: Ông đã bước vào, ông đã thấy và đã tin. Đức tin của Gioan được củng cố và xác định nhờ đức tin của Simon. 

Cả hai môn đệ cùng đi đến niềm tin Chúa đã Phục sinh, tác giả tin Mừng Gioan cho thấy, hai ông đã phải vượt qua rào cản của lý trí tự nhiên và lý luận thực tiễn để có thể đón nhận được tin mừng vĩ đại này. Tin Mừng kết luận: Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Kinh nghiệm đức tin của hai môn đệ chỉ cho các thế hệ sau phương thế có thể đón nhận được niềm tin Phục sinh, đó là hiểu và tin lời Kinh Thánh. Sau khi đón nhận đức tin qua dấu chỉ ngôi mộ trống và những băng vải, các tông đồ cho thấy rằng, Kinh Thánh chính là lời chứng mạnh nhất, uy thế nhất về màu nhiệm Phục Sinh. Những người dù không được thấy mộ trống, cũng không thấy những băng vải liệm vẫn có thể đón nhận được niềm tin phục sinh qua việc suy gẫm, hiểu và tin vào những gì Kinh Thánh đã viết.

Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi hoàn toàn các tông đồ, biến các ông từ những con người nhút nhát trở nên can đảm mạnh mẽ, từ những người nhà quê bình dân trở thành những con người thông thái. Niềm tin Chúa Phục Sinh cũng sẽ biến đổi cuộc đời của mỗi tín hữu, đem lại cho mỗi người niềm vui và hy vọng, giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Đó cũng là điều Thánh Phaolô đã kinh nghiệm và dạy lại cho chúng ta: Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa.

Như thế, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô phải trở thành niềm tin thúc đẩy chúng ta sống cao thượng, sống vui và sống đẹp, chú tâm làm điều thiện, điều tốt. Sống như thế là sống có mục đích, có ý nghĩa và là cuộc sống đầy tràn niềm vui. Chúng ta không thể tuyên xưng Chúa Phục sinh mà lại sống trong buồn bã thất vọng, chết chóc. Chúng ta không thể nói về Chúa phục sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu tình yêu, thiếu bao dung và cảm thông với anh chị em.

Cũng vậy, niềm tin Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới lại nếp sống của bản thân và gia đình, đem lại cho gia đình mình một nếp sống mới. Hãy phá bỏ tảng đá chết chóc, giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta để ta bước đi trong ánh sáng của sự thật, bao dung và tha thứ.

Xin Chúa cho chúng ta có một thái độ khiêm tốn như các tông đồ, cúi mình cung kính thờ lạy để đón nhận Màu nhiệm Phục sinh; và xin cho mỗi chúng ta luôn lắng nghe lời dạy bảo của Giáo Hội, đọc và suy gẫm lời Kinh Thánh để đức tin của chúng ta được củng cố và nâng đỡ mỗi ngày. Amen.

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

ĐÊM KHỞI ĐẦU SỰ SỐNG MỚI

ĐÊM VỌNG PHỤC SINH 2017: 
ĐÊM KHỞI ĐẦU SỰ SỐNG MỚI

Chúng ta đang sống trong bầu khí linh thiêng của đêm Vọng Phục Sinh. Đêm nay, bóng tối của sự chết đã bị đẩy lui, ma quỷ đã đầu hàng, đây là đêm của sự chiến thắng, đêm khởi đầu cho sự sống mới. Hằng năm, Giáo Hội cử hành đêm Vọng Phục Sinh như đêm canh thức đợi chờ trong hy vọng và hân hoan. Khởi đầu cho đêm canh thức này là bản trường ca Exultes ca tụng quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu trỗi dậy, vượt thắng sức mạnh của ma quỷ và thần chết, đem lại cho nhân loại niềm hy vọng và sức sống mới. Như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất, chịu mục nát để cho cây lúa mới nẩy mầm làm nên mùa gặt mới nặng trĩu hạt vàng, Chúa Giêsu đã được chôn vùi trong lòng đất, đến ngày thứ ba, Ngài đã đạp mồ bước ra, mở ra cho nhân loại một thời đại mới.

Kết quả hình ảnh cho ngôi mộ chúa

Các bài đọc trong đêm nay giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Khởi đầu từ việc Thiên Chúa yêu thương dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và trao cho con người quyền trông coi vũ trụ. Tuy nhiên, con người đã lạm dụng tự do Thiên Chúa ban, quay lưng chống lại Thiên Chúa, phản bội tình yêu của Ngài. Thiên Chúa không đành bỏ con người, trong lời tuyên phạt con rắn, Thiên Chúa đã hé mở cho con người một con đường sống, con đường hy vọng: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, …

Thiên Chúa đã thực hiện chương trình cứu độ của Ngài qua việc tuyển chọn Apbram và mời gọi ông từ bỏ quê hương để bước theo tiếng gọi của Chúa. Thiên Chúa đã thử thách đức tin của ông, đã đề nghị ông hiến tế người con trai duy nhất là Isaac cho Chúa. Dù vô cùng đau đớn, Apbraham đã thực hiện như lời Chúa truyền, đem con là Isaac đi sát tế. Thiên Chúa chỉ thử thách ông, Ngài đã trả lại cho Apbraham đứa con mà ông yêu quý. Câu chuyện cho thấy, nếu như Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi đau của Apbraham, đã trả lại cho ông Isaac, thì đến lượt mình, Ngài lại chấp nhận nỗi đau đứt ruột nát gan để trao Người Con Một cho nhân loại. Đức Giêsu đã chịu hiến tế, cái chết của Ngài đã trở thành của lễ đem ơn cứu độ cho nhân loại. 

Bài sách Xuất Hành làm nổi bật sự chiến thắng vinh quang của quyền năng Thiên Chúa. Khi ấy, dân Do Thái phải chịu cảnh nô lệ khổ cực bên đất Aicập, sống trong tăm tối nhục nhã. Thiên Chúa đã dùng các phép lạ để trừng phạt người Aicập và ra tay hùng mạnh đè bẹp chiến xa và kỵ binh của người Aicập. Thiên Chúa đã dùng Mose để đưa dân vượt qua Biển Đỏ, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ. Biến cố Vượt Qua này trở thành niềm tự hào, là biến cố ăn sâu vào tâm trí, đời sống đức tin và tôn giáo của dân Israel. Biến cố này còn là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa dùng Đức Giêsu, con của Ngài để dẫn nhân loại vượt qua bóng tối của đau khổ, tội lỗi và sự chết để bước vào ánh sáng vinh quang phục sinh.

Các bài đọc tiếp theo trong đêm canh thức chỉ cho chúng ta những cách sống để có thể cùng tham dự vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Mỗi người, nhờ Bí tích Rửa Tội, được dìm vào sự chết của Chúa Giêsu và cùng trỗi dậy trong sự phục sinh của Ngài. Vì thế, chúng ta được mời gọi thay đổi cuộc đời, sống con người mới, với tinh thần mới và hành động như con cái sự sáng. Mỗi người được mời gọi để sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần canh tân biến đổi nên con người mới. Thánh Thần sẽ giúp chúng ta giũ bỏ lại đàng sau quá khứ tội lỗi và sự chết để mang trong mình mầm sống phục sinh của Chúa Kitô.

Chỉ khi mỗi người dám trút bỏ nếp sống cũ, mặc lấy con người mới, mang cái nhìn và cách cư xử mới, chúng ta mới có thể gặp Chúa Phục Sinh và trở thành người loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Câu chuyện thánh Matthew thuật lại hôm nay cho thấy sự thay đổi của các phụ nữ khi đón nhận Tin Mừng Phục Sinh. Các phụ nữ này là những người đã theo Chúa, yêu mến Chúa, nhưng dường như các bà vẫn nhìn Chúa theo cái nhìn cũ, sống theo tình cảm, thói quen cũ. Sau khi đã an táng Chúa cách đây mấy ngày, chiều ngày Sabát khởi đầu cho ngày thứ nhất, các bà rủ nhau ra thăm mộ Chúa. Trong tâm hồn các bà, Chúa Giêsu đã chết, tâm hồn các bà cũng đã chết vì sợ hãi và hy vọng của các bà cũng đã chết cùng với nấm mồ của Chúa. Vì thế, khi ra thăm mộ, thấy đất trời rung chuyển, có thiên thần của Thiên Chúa từ trời xuống lăn tảng đá và ngồi trên đó, diện mạo người như ánh chớp, y phục trắng như tuyết, các bà đã hết sức khiếp sợ.

Với hình ảnh Thiên Thần của Thiên Chúa uy phong như thế, tác giả Tin Mừng muốn nói rằng, chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá lấp cửa mồ, đã phá dấu ấn niêm phong và đã ngồi trên tảng đá ấy như một vị anh hùng thắng trận. Sứ Thần của Thiên Chúa đã trấn an các bà: Này các bà, đừng sợ! Đấng bị đóng đinh đã không còn ở đây, Ngài đã trỗi dậy như lời Ngài đã nói. Sứ Thần mời gọi các bà đến kiểm chứng chỗ Ngài đã nằm và mời gọi các bà trở thành những người loan báo tin vui Phục sinh: Hãy nói cho các môn đệ rằng, Người đã trỗi dậy từ cõi chết, Người sẽ đến Galilê trước các ông và sẽ gặp các ông ở đó. 

Tin Mừng kể tiếp: Các bà vội vã ra khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng rất đỗi vui mừng chạy về báo tin cho các môn đệ Chúa Giêsu. Các phụ nữ đã được biến đổi. Nếu như trước đây các bà sống trong sự sợ hãi, u buồn của cái chết, thì giờ đây, sau khi được Sứ Thần báo tin, các bà đã trở nên mạnh dạn và hân hoan. Các bà đã bước ra khỏi ngôi mộ là sự sợ hãi, buồn thảm đang đè nặng tâm hồn, để sống niềm vui mới, niềm vui phục sinh. Với tinh thần mới, con người mới, các phụ nữ đã đem tin vui phục sinh về cho các môn đệ. Kế đó, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra để củng cố niềm tin cho các bà, Ngài cho các bà thấy Ngài, được ôm lấy chân Ngài và bái lậy Ngài. Thái độ bái lậy là thái độ của những người tin Chúa Phục Sinh là chính Thiên Chúa.

Thiên Chúa vẫn đang thực hiện chương trình sáng tạo, tái tạo và cứu chuộc mỗi chúng ta. Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang hiện diện và đồng hành với mỗi chúng ta. Để nhận ra Ngài, chúng ta cũng phải làm như các phụ nữ trong Tin Mừng, mạnh dạn bước ra khỏi mồ để đón nhận niềm vui Phục Sinh. 

Nhiều người trong chúng ta vẫn đang chôn vùi cuộc đời của mình trong nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn níu kéo con người cũ cùng với quá khứ và những thói quen xấu, khiến chúng ta chưa đón nhận được niềm vui Phục Sinh. Cuộc sống của nhiều người còn bị đè nặng bởi gian dối, tiền bạc, của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người loan báo tin vui phục sinh cho anh em. Cuộc sống của nhiều gia đình đang bị đè nặng bởi nóng nảy cãi vã, bị trói buộc bởi giận hờn tranh chấp, ích kỷ, khiến cho cuộc sống gia đình căng thẳng, u ám buồn bã. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi những nấm mồ chết chóc tối tăm ấy, để đón nhận ánh sáng phục sinh của Chúa. Hãy để cho Thánh Thần biến đổi và hướng dẫn cuộc sống chúng ta, Ngài sẽ làm cho cuộc đời ta tràn ngập niềm vui của Chúa Phục Sinh và biến chúng ta trở thành những người loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho anh chị em. Amen.

LmGiuse Đỗ Đức Trí

NGƯỠNG SINH – TỬ



Ngày Thứ Bảy – khoảng chơi vơi

Thầy không còn nữa, khốn đời con đây!

Con cô đơn, thấy nhớ Thầy

Giờ con mới thấm phút giây một mình

Bên Thầy, con quá vô tình

Mất Thầy, con mới biết mình lầm saiThứ Bảy Thánh vẫn còn bao trùm sự tĩnh lặng của Thứ Sáu Thánh. Theo tiếng Tây Ban Nha, Thứ Bảy Thánh gọi là Sabado Santo – viết tắt là SS, còn tiếng Anh gọi là Holy Saturday. Ngày này là “biên độ” đặc biệt, rất lạ vì có điều bất ngờ kỳ diệu: Cuộc Vượt Qua Mầu Nhiệm của Đức Kitô.

Trong cuộc sống, cái gì cũng có ranh giới, biên độ, biên giới hoặc giới hạn. Nhưng có một loại ranh giới “độc đáo” nhất, vừa đáng quan ngại vừa đáng quan tâm, đó là Ranh Giới SINH – TỬ, cái “ngưỡng” giữa Sự Sống và Sự Chết. Ranh giới này rất mong manh, chỉ là một làn hơi thở. Người ta cũng thường so sánh: “Ngủ và chết chỉ khác nhau hơi thở”. Thật đúng như vậy!

Kết quả hình ảnh cho ngôi mộ chúa

Chắc hẳn chẳng ai muốn nhắc tới sự chết – dù chết là điều minh nhiên và tất yếu, bởi vì người ta cho đó là “chuyện xui xẻo”. Các môn đệ đã cảm thấy buồn khi nghe Ngài nói về việc đi chịu chết, và chính Phêrô đã lên tiếng ngăn cản Thầy Giêsu. Không chỉ một lần mà đã vài lần Đức Giêsu Kitô tỏ cho các môn đệ biết rằng Ngài PHẢI đi Giêrusalem, PHẢI chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, họ còn nộp Ngài cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá rồi bị giết chết, thế nhưng “ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19).

Rất hả hê khi các thượng tế và những người Pharisêu kéo nhau đến gặp ông Philatô, họ gọi Đức Giêsu là “tên bịp bợm”, họ xin ông Philatô cho lính canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba vì họ sợ có người đến lấy trộm xác rồi phao tin Ngài sống lại. Thật là mưu mô xảo trá của những kẻ lòng lang dạ thú, chính họ bịp bợm mà lại nói người khác, họ gian dối nên mới hành động lén lút. Và rồi họ đã niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ (Mt 24:62-66). Thế nhưng cũng chỉ là dã tràng xe cát, hoàn toàn vô ích mà thôi!

Đích thân mấy tên lính canh đã bật ngửa khi Đức Giêsu sống lại, ấy thế mà họ vẫn cứng lòng. Họ sợ sự việc này đến tai quan tổng trấn nên đã chạy chọt và dàn xếp với quan để mấy tên lính canh được vô sự. Chính mấy tên lính canh đã nhận tiền hối lộ và làm theo lời họ là phao tin đồng nhảm, cho rằng thi hài Đức Kitô bị đánh cắp, và câu chuyện này vẫn được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay (Mt 28:14-15). Cả lũ lọc lừa, thâm độc, tham nhũng và hối lộ, từ trên xuống dưới, thật là kinh khủng quá!

Tuy nhiên, sự thật vẫn mãi là sự thật, không ai có thể bóp méo hoặc xoay hướng. Chúa Giêsu sống lại hay chết vĩnh viễn thì thế giới đã biết rõ. Không cần mất thời gian tranh cãi với những kẻ vô thần cứng lòng tin, lòng chai dạ đá như thế: “Đối với người tin thì không cần giải thích, đối với người không tin thì giải thích cũng vô ích” (Thánh nữ Bernadette). Thánh Phaolô đã lý giải: “Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ vô ích, vì đó là niềm tin hoang đường, hão huyền, vô căn cứ, và chúng ta vẫn sống trong tội lỗi” (1 Cr 15:17). Thật vô cùng hạnh phúc khi đức tin của chúng ta có căn cứ rõ ràng chứ không mơ hồ, không hão huyền, không mê tín, và chắc chắn không hề uổng phí, bởi vì Đức Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20:38). Đó là sự thật, càng ngày sự thật đó càng được minh chứng cụ thể.

Bài đọc thứ nhất là trình thuật St 22:1-18, có đề cập “vấn đề sinh – tử”, đó là việc ông Áp-ra-ham vâng lời Chúa mà hiến tế con mình làm lễ toàn thiêu trên một ngọn núi theo lệnh Ngài truyền. Không chần chừ, không so đo, không tính toán, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con trai I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ ở lại với con lừa, rồi đưa con trai đi, ông bảo rồi sẽ trở lại với họ.

Mà sao lạ thế nhỉ? I-xa-ác không thấy chiên để làm lễ toàn thiêu nên hỏi cha, ông Áp-ra-ham ôn tồn bảo rằng chiên làm lễ toàn thiêu sẽ được chính Thiên Chúa lo liệu, và hai cha con tiếp tục cùng đi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ. Ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ xong, xếp củi lên, rồi trói con trai I-xa-ác lại và đặt lên đống củi trên bàn thờ. Có điều lạ lùng là cậu I-xa-ác vẫn ngoan ngoãn theo lệnh cha mà không hề thắc mắc hoặc phản đối, rõ ràng niềm tin của người con cũng lớn không kém niềm tin của người cha.

Đức tin của ông Áp-ra-ham lớn quá. Ông không hề thắc mắc khi Thiên Chúa bảo hiến tế chính đứa con độc nhất, con cầu con khẩn của mình, và hoàn toàn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Một người công chính như vậy thì thật tuyệt vời biết bao! Và cậu I-xa-ác là hình bóng của Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên Thập Giá.

Tuy nhiên, ngay khi ông Áp-ra-ham vừa đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình thì sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Sứ thần nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”. Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Đúng là Thiên Chúa sẽ lo liệu như ông đã nói, và ông đặt tên cho nơi đó là “Đức Chúa sẽ liệu”. Từ đó có câu: “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu”.

Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Ôi, đức tin của ông Áp-ra-ham lớn lao và sâu xa quá: Sẵn sàng ra đi đến miền đất Chúa chỉ cho và không ngại hiến tế chính con yêu dấu của mình. Và niềm tin tuyệt đối của ông đã được Thiên Chúa bù đắp xứng đáng!

Ông vững tin vì ông biết địa cầu này đầy ân sủng của Thiên Chúa, chắc chắn ở đâu có Chúa là có bình an và hạnh phúc. Đúng như Thánh Vịnh gia đã tin tưởng khi xác nhận: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất. Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. Chúa dồn đại dương về một chỗ, Người đem biển cả trữ vào kho” (Tv 33:4-7).

Thật đúng là “hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể, hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp, và từ trời cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi người” (Tv 33:12-13). Thiên-Chúa-của-người-sống là kho báu mà mọi người mơ ước và cầu mong: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì. Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh. Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:20-22).

Biên độ sinh – tử mong manh lắm, nhưng cái “ngưỡng” đó lại là một hành trình dài, là cuộc xuất hành đầy gian nan, và là cuộc vượt qua đầy thử thách cam go.

Thuở xưa, khi dân chúng kêu xin, chính Đức Chúa đã tuyên phán với ông Mô-sê: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy” (Xh 14:15-18).

Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước biển rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên. Dân Ít-ra-en đi qua, còn quân Ai-cập chịu thất bại ê chề. Đó là cuộc giải phóng thần kỳ với thế cờ lật ngược. Chỉ có Thiên Chúa mới khả dĩ làm được như vậy. Dân Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập nên đồng tâm nhất trí kính sợ Đức Chúa, tín thác vào Đức Chúa và tin tưởng vào ông Mô-sê.

Và bấy giờ, ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en vang lời hát mừng Đức Chúa: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Người là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc, Người là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng. Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh, đã nghiền nát địch quân. Người cho dân tiến vào định cư họ trên núi gia nghiệp của Người. Lạy Chúa, chính nơi đây Người chọn làm chỗ ở, đây cũng là đền thánh tự tay Người lập nên. Chúa là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời” (Xh 15:1-6, 17-18).

Trong cuộc sống, nước là chất thiết yếu. Nước rất mềm yếu nhưng cũng rất mạnh mẽ. Nước rửa sạch ô uế, nước gội mát muôn vật, làm cho mọi vật hồi sinh. Nước rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thiếu nước thì người ta mau chết hơn là thiếu đồ ăn. Nước là biểu hiện của sự sống. Nước rất kỳ diệu!

Nước tự nhiên mà còn kỳ diệu đến thế huống chi nước tâm linh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4).

Nói về ngưỡng sinh – tử, Thánh Phaolô nói: “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6:5-7). Thật kỳ diệu với cái vòng sinh – tử như vậy!

Kinh Thánh cho biết rạch ròi: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8). Niềm tin đó hoàn toàn chính xác, không hề luống công vô ích. Thật vậy, Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:9-11).

Được thừa kế niềm tin đó, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi mọi người:“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1-2). Tại sao như vậy? Lý do rất minh nhiên: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực. Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:16-17).

Chính Đức Kitô là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Ngài đã bị người ta nhẫn tâm giết chết nhục nhã, oan sai, và người ta tưởng làm như vậy là chấm dứt lịch sử, thế nhưng Ngài đã lật ngược thế trận, Ngài đã chiến thắng tử thần và đã phục sinh vinh quang. Đó chính là công trình của Chúa, công trình vô cùng kỳ diệu trước con mắt phàm nhân chúng ta. Và chắc chắn rằng, từ thuở hồng hoang cho tới tận thế, không một thần linh nào khác có thể sống lại như Chúa Giêsu của chúng ta.

Trình thuật Tin Mừng Mt 28:1-10 nói về khoảnh khắc lịch sử độc nhất vô nhị trên thế gian này, với lời kể ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ, súc tích.

Sau ngày sa-bát, vừa tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a cùng đi viếng mộ. Thình lình đất rung chuyển dữ dội: Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên, diện mạo người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết. Thấy vậy, tụi lính canh khiếp sợ và run rẩy đến nỗi chết ngất đi. Ấy thế mà họ vẫn cứng lòng tin còn hơn sáp nguội!

Tại ngôi mộ trống, thiên thần động viên các phụ nữ “đừng sợ!”, và cho họ biết rằng Đức Kitô đã sống lại như Ngài đã nói trước. Các bà đến mà xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau mắn về báo tin mừng và bảo các tông đồ đến Ga-li-lê để được diện kiến Thầy Giêsu. Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo Tin Mừng Phục Sinh.

Chúng ta cần phải học tập từ các phụ nữ về hai điều này: Mau mắn loan báo Tin Mừng và làm chứng về Chúa Giêsu Phục Sinh.

Trong khi các phụ nữ này đang trên đường đi, Đức Giêsu đã đón gặp họ và nói: “Chào chị em!”. Các bà khoái chí hết sức nên đua nhau tiến lại gần Ngài, bái lạy Ngài và muốn ôm lấy chân Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với họ: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10). Các phụ nữ đó là những người đầu tiên được diện kiến Đấng Phục Sinh và trở thành các nhân chứng sống đầu tiên về Chúa Giêsu Phục Sinh.

Có hai chữ quan trọng chúng ta phải ghi nhớ và thực hành trong cuộc sống: ĐỪNG SỢ! Đó là một mệnh lệnh đòi hỏi phải có lòng can đảm thực sự, bởi vì điều đó không dễ thực hiện. Vì thế mà ai cũng phải cố gắng không ngừng, từng giây phút theo từng nhịp thở. Tương tự biên độ sinh – tử, biên độ giữa sự can đảm và sự hèn nhát cũng rất mong manh. Bởi vậy, lúc nào chúng ta cũng phải tự nhủ như niệm thần chú: ĐỪNG SỢ!

Và đó cũng là lời động viên rất quan trọng được Kinh Thánh đề cập nhiều lần: St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 41:10; Is 41:13; Is 43:1; Is 43:13; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18.

SINH để TỬ, CHẾT để SỐNG, đó là triết-lý-sống của Kitô giáo, chắc chắn người vô thần – và một số tôn giáo khác – không thể nào hiểu nổi cái “ngưỡng” độc đáo như vậy. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ và là sự sống, cái chết của Ngài chỉ là cái chết về nhân tính, chứthần tính của Ngài KHÔNG THỂ CHẾT. Và giờ đây, lời Chúa Giêsu tiên báo đã ứng nghiệm, tất cả chúng ta cùng hân hoan ca vang: ALLELUIA, CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI!

Lạy Thiên Chúa hằng hữu và hằng sinh, xin củng cố ba nhân đức đối thần và thêm lòng can đảm cho con, xin giúp con sẵn sàng và mau mắn làm chứng về sự thật, về Tin Mừng Phục Sinh trong suốt cuộc sống của con, theo hoàn cảnh sống hữu hạn của con, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Thứ Bảy, 8 tháng 4, 2017

Ba ngã rẽ

Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Giêsu Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.

Trước khi bước vào khổ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng, chặt những nhánh cây rải lối để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như một vị vua.

Kết quả hình ảnh cho lễ lá 2017

Chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa Giêsu theo sự xúi giục của giới lãnh đạo tôn giáo. Người đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.

Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Chúa Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.

Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.

Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.

Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?

Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông (ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt).

1. Ngã rẽ của đám đông.

Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh họa Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá". Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu nổi bật trong mầu nhiệm đau thương và cứu độ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông, gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét...

Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.

Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!

2. Ngã rẽ của Giuđa.

Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.

Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.

3. Ngã rẽ của Phêrô.

Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.

Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.

Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.

Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.

Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.

Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện ba ngã rẽ của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công…như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.

Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ. Trên con đường khổ giá của Chúa, chúng ta sẽ gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Vượt trên tất cả, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình yêu vô vô bờ bến của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.

Ước mong mỗi người có thể đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu.

Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.

(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

TÌNH YÊU CHIẾN THẮNG HẬN THÙ

Nhiều lần nói về hòa bình cho thế giới, Đức Thánh Giáo Hoàng JP II đã quả quyết: Dùng bạo lực để đáp lại bạo lực thì chỉ có thể gia tăng bạo lực. Chỉ có tình yêu và sự tha thứ mới có thể đem lại hòa bình cho nhân loại. Đức Thánh Giáo Hoàng JP II đã rút ra kết luận này từ chính tấm gương của Chúa Giêsu, Đấng đã không dùng bạo lực để đối đồu với sự dữ, sự ác, nhưng Ngài dùng tình yêu và sự tha thứ để chiến thắng hận thù.

Kết quả hình ảnh cho lễ lá 2017

Các bài đọc trong ngày Lễ Lá hôm nay thuật lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Thánh Matthew muốn minh chứng rằng, Chúa Giêsu quả thật là Đấng cứu Thế, là Thiên Chúa quyền năng; Ngài có thể làm được tất cả mọi sự, nhưng khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu đã hoàn toàn chấp nhận trở nên như con người chúng ta. Trải qua cuộc thương khó, Chúa Giêsu không phản ứng theo kiểu thế gian, nhưng luôn thể hiện một tình yêu nhân từ độ lượng với mọi người, kể cả với những kẻ đang gây đau khổ cho Ngài.

Bài Tin Mừng được đọc khi kiệu lá, cho thấy một bầu khí tưng bừng náo nhiệt của dân chúng, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu đứng lên huy động dân chúng, chống lại chính quyền đô hộ Roma. Có nghĩa là họ muốn Chúa Giêsu đi theo con đường chính trị, sử dụng chiến tranh, bao lực. Vì thế, khi thấy Chúa Giêsu được các môn đệ đón rước vào thành Giêrusalem, những người Do Thái đã tung hô: Hoan hô Con vua Davit! Chúc tụng Đấng nhân Danh Chúa mà đến.

Chúa Giêsu đã không để mình bị lôi kéo vào xu thế của đám đông. Việc Ngài vào thành Giêsuralem là để làm trọn những lời Kinh Thánh đã nói về Người. Người không thể hiện mình như một chiến binh ngồi trên chiến mã, nhưng tỏ ra là một vị vua đem lại hòa bình, ngồi trên lưng lừa con. Với tư thế này, Chúa Giêsu cho thấy Người là một vị vua tình yêu, chứ không phải là một hoàng đế; Người dùng sự hiền lành, tình yêu thương để đối xứ với nhân loại, chứ không dùng bạo lực và vũ khí; Người sẽ chiến thắng thế gian bằng tình yêu và sự tha thứ, chứ không bằng binh lực chiến tranh.

Vì không chấp nhận đường lối hòa bình của Chúa Giêsu, nên Giuda đã muốn dồn Chúa Giêsu đến chỗ phải chấp nhận một cuộc khởi nghĩa bằng bao lực, tấn công. Anh đã thỏa thuận với các thượng tế để tìm cách trao nộp Chúa Giêsu cho họ. Chúa Giêsu biết sự việc đã xảy ra, Ngài biết Giuda, một học trò đã bị đồng tiền và sự ác chi phối, Ngài đau đớn trong lòng về sự phản bội này, song Chúa Giêsu đã để cho tình yêu của Ngài bao trùm tất cả. Ngài không oán trách, nhưng vẫn bày tỏ tình thương đối với anh. 

Bữa tiệc Vượt Qua diễn ra trong bầu khí thánh thiện với tâm tình tạ ơn của cả dân tộc Israel để tưởng nhớ việc Thiên Chúa giải thoát họ khỏi đất Aicập. Chúa Giêsu đã biến bữa tiệc này thành bữa tiệc hy sinh trao tặng. Trong bầu khí tràn ngập tình yêu thương, Chúa Giêsu đã lên tiếng nhắc cho Giuda biết về việc làm sai trái của anh: Một người trong các con sẽ phản bội Thầy. Tuy nhiên, vì Giuda đã đóng cửa lòng, đã quay lưng lại với tình yêu để chọn thế gian và bạo lực, anh đã không đón nhận được tín hiệu yêu thương từ nới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không xua đuổi, không từ chối anh, Ngài vẫn thể hiện sự quan tâm, tình yêu thương đối với anh, Ngài bẻ bánh trao cho anh, lấy thức ăn cho anh, nhưng anh vẫn không cảm nhận được điều đó. Anh đứng lên bỏ ra ngoài.

Không có gì gây tổn thương bằng, khi những kẻ mình yêu thương tỏ ra dửng dưng vô cảm và với mình. Chúa Giêsu cũng đã trải qua tâm trạng như thế. Không còn cách nào hơn để diễn tả tình yêu và sư hy sinh tự hiến của mình, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và rượu, trao cho các môn đệ và nói với các ông: Đây là mình Thầy, đây là máu Thầy sẽ đổ ra để tha tội cho nhân loại. Nhưng các môn đệ dường như vẫn không thể hòa cùng một nhịp yêu thương và tâm trạng của Chúa Giêsu, họ cũng chẳng chú ý là mấy. Khi Thầy, trò cùng Chúa đến vườn Cây Dầu, các môn đệ tìm chỗ để ngủ, họ để Chúa cô đơn, một mình chiến đấu với sự giằng co và sợ hãi. Sau những lần kêu mời các ông: Hãy tình thức và cầu nguyện, Ngài như một người mẹ hết sức cảm thông khi thấy mắt con mình năng trĩu, Chúa không trách các ông, nhưng Ngài nói: Thôi! Các con cứ ngủ đi.

Khi bị bắt, bị điệu đến trước dinh Caipha, một mình Chúa Giêsu đứng giữa những đám người đang nuôi trong mình sự ghen tức muốn trả thù. Những người này đã từng sợ mất ảnh hưởng, sợ Chúa Giêsu tranh giành quyền lực, khi thấy đám đông dân chúng theo Ngài, nên giờ đây là lúc họ trút sự thù óan lên Chúa Giêsu. Trả lời cho những lời chửi bới vu cáo này là sự im lặng. Nhưng khi cần phải nhân danh Thiên Chúa để trả lời câu hỏi của Thượng tế: Ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không? Chúa Giêsu đã khẳng định: Đúng như Ngài vừa nói.

Khi Chúa Giêsu bị điệu đến dinh tổng trấn Philatô, những người Do Thái, do sự xúi giục của các Thượng Tế, đã tráo trở và thể hiện âm mưu của mình là muốn Chúa Giêsu phải chết. Nếu như trước đây, các Thượng tế chỉ khó chịu với Chúa Giêsu về vấn đề giáo lý, tôn giáo, lúc này trước mặt Philatô, họ vu cáo Chúa Giêsu như một kẻ bạo loạn chính trị nguy hiểm. Họ nói: Ông này xưng mình là vua dân Do Thái; ông này xúi dân không nộp thuế cho Hoàng đế. Những người Do Thái công khai nhận mình chỉ tôn thờ Hoàng đế, họ chọn tha Baraba là kẻ trộm cướp và không chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Đáp lại sự cáo buộc tráo trở này và sự gian ác của người Do Thái, sự nhục mạ của các tên lính, Chúa Giêsu không nói một lời nào, Ngài chỉ nhìn họ bằng ánh mắt chạnh lòng thương vì họ lầm không biết.

Khi Philatô trao Chúa Giêsu cho những người Do Thái và quân lính hành hạ và đem đi đóng đinh, Chúa Giêsu một mình như đứng giữa bầy sói. Sự gian ác thâm hiểm của con người đã lên đến cực độ, sự thù oán tích tụ lâu ngày, nay có dịp bùng lên. Suy gẫm đoạn tường thuật này, Tin Mừng cho thấy, những người Do Thái dường như đã đánh mất tính người và tình người, chỉ còn lại trong mình bộ mặt và sự dã tâm của những con dã thú. Chúng nhảy vào xâu xé, đánh đập, hành hạ Chúa Giêsu cho thỏa với bản năng của mình. Trước sự hung tợn đó, Chúa Giêsu vẫn không hề sợ hãi, Ngài đón nhận tất cả với một lòng yêu mến hoàn toàn dành cho Thiên Chúa Cha và với một tình yêu bao dung quảng đại dành cho nhân loại.

Trong lúc chịu đau đớn như vậy, Chúa vẫn thể hiện tình thương và sự quan tâm đến những người chung quanh, trước hết là các phụ nữ. Chúa cảm thông với trách nhiệm làm vợ làm mẹ của họ, cảm thông với những nỗi khổ tâm của họ khi bị chồng con phản bội: Đừng khóc thương ta, nhưng hãy khóc thương các chị và con cháu các chị. Khi bị đóng đinh trên thập giá, Chúa Giêsu đã dành tình yêu thương của mình cho người mẹ và những người môn đệ đang ở chung quanh. Cuối cùng, sau khi đã hoàn tất mọi sự, Chúa Giêsu đã trao phó cả linh hồn và xác cho Thiên Chúa, như một người con thảo hiếu hết mực yêu mến và vâng phục cha mình.

Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta dễ bị cám dỗ dùng bạo lực, nóng nảy để giải quyết vấn đề, dùng sự trả thù ghen ghét, ác độc làm vũ khí. Mỗi người được mời gọi nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó này, để học nơi Chúa sự yêu thương tha thứ, để biết cư xử tha thứ và yêu thương đối với những người gây tôn thương cho mình; dùng tình yêu và trái tim thương xót để giải quyết tất cả các vấn đề xảy đến trong cuộc sống, nhất là trong gia đình. Noi gương Chúa Giêsu xin cho chúng ta cũng biết để cho tình yêu và sứ tha thứ vượt thắng tất cả. Amen.

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí